Bài dự thi Búa liềm vàng: Quan điểm về hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng ta và các giải pháp nâng cao hiệu quả

Trước xu thế mới của thời đại, kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế toàn cầu cũng như tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế đối ngoại đã phát triển nhanh chóng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội cũng như tạo đà phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Đặc điểm, vai trò kinh tế đối ngoại

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trở thành một xu thế tất yếu, các quốc gia, dân tộc trên thế giới muốn vươn lên khẳng định vị thế của mình đều phải tập trung phát triển kinh tế; muốn thực hiện mục tiêu đó phải kết hợp sức mạnh nội tại với sức mạnh bên ngoài, nhất là về vốn, khoa học, công nghệ, trình độ quản lý... Để hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế quốc tế, tất yếu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại. Vai trò cơ bản của kinh tế đối ngoại được thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, phát triển kinh tế đối ngoại góp phần đẩy mạnh quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát huy nội lực quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh cũng như vị thế về chính trị - ngoại giao của một quốc gia, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần mở rộng và đưa quan hệ kinh tế quốc gia với các nước khác đi vào chiều sâu, tham gia các liên kết kinh tế, các diễn đàn đa phương quốc tế nhằm tranh thủ tối đa các nguồn lực phát triển và nâng cao vị thế đất nước.

Thứ hai, phát triển kinh tế đối ngoại góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) và viện trợ phát triển chính thức (ODA), trao đổi kinh nghiệm xây dựng, chuyển giao công nghệ và phát huy các tiềm lực của mỗi nước. Thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại, chính phủ các nước đẩy mạnh xây dựng chiến lược ngoại giao kinh tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; tăng cường hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, kết cấu hạ tầng kinh tế,... nhằm tạo hành lang pháp lý, môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn để thu hút và thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác song phương cũng như đa phương ổn định, lâu dài. Trên cơ sở trao đổi và chuyển giao về công nghệ, các nước có thể tiếp cận nền khoa học tiên tiến, trình độ lãnh đạo và quản lý kinh tế hiện đại, nhất là trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

Thứ ba, phát triển kinh tế đối ngoại góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều ngành, nghề, việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; thúc đẩy xuất khẩu lao động, phát triển nền công nghiệp du lịch, công nghiệp quốc phòng, nhằm bảo đảm an ninh kinh tế, trật tự xã hội và an sinh xã hội đối với người dân.

Thứ tư, phát triển kinh tế đối ngoại góp phần nối liền sản xuất, bảo đảm lưu thông trong nền kinh tế một cách bền vững, bảo đảm trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, cân bằng xuất - nhập khẩu, bảo đảm tính liền mạch của thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. Đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại thúc đẩy quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế; là phương thức hữu hiệu và cầu nối quan trọng trong việc đưa hàng hóa của các quốc gia thâm nhập vào thị trường nước ngoài; là điều kiện quan trọng để quốc gia tiếp cận và hợp tác với các quốc gia khác cũng như nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, qua đó nâng cao năng lực sản xuất, sức cạnh tranh của nền kinh tế mỗi nước, thúc đẩy thị trường trong nước tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.

Quan điểm chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng ta

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta khẳng định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”.

Một là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.

Bốn là, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động.

Sáu là, tuân thủ các cam kết kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới

Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới, đòi hỏi cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho các cơ quan, đội ngũ cán bộ liên quan đến kinh tế đối ngoại và cộng đồng doanh nghiệp về chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, nhất là về những diễn biến mới, thách thức mới và các cách thức ứng phó. Tập trung phổ biến về các luật kinh tế đối ngoại, các văn bản chỉ đạo của Nhà nước, của các sở, ban, ngành địa phương về phát triển kinh tế đối ngoại, các vấn đề về bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản, định hướng phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh…

Thứ hai, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và sản xuất, xuất - nhập khẩu hàng hóa. Đặc biệt, định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để tiếp cận công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm quản lý và đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc nhằm thay đổi tầm nhìn và kỹ năng lao động. Từ đó, giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ ba, chú trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại theo chiều sâu, gắn chặt với lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời tích cực đẩy mạnh quan hệ kinh tế với các đối tác lớn và có tiềm năng nhằm tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế, thương mại trong nước. Tập trung xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp có tính chất nền tảng (như công nghiệp hỗ trợ, vật liệu, hóa chất, chế tạo, chế biến, điện tử) và hình thành các doanh nghiệp công nghiệp mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Chú trọng phát triển một số ngành mang tính đột phá, phù hợp với xu thế quốc tế, như công nghệ xanh, các phương tiện giao thông sử dụng năng lượng mới, công nghiệp sinh hóa và dược phẩm…

Thứ tư, tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; đồng thời, chú trọng giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích của các nước khác trong quan hệ kinh tế đối ngoại; tăng cường bảo đảm an ninh kinh tế đối ngoại, nhất là trong lựa chọn, thu hút FDI ở các ngành mang tính chiến lược, nền tảng và trong thực thi các cam kết của các FTA thế hệ mới.

Thứ năm, đầu tư mạnh vào “nguồn vốn” con người để có được những thế hệ công dân Việt Nam giàu trí tuệ, bản lĩnh, giỏi ngoại ngữ, có kiến thức về kinh tế quốc tế, kỹ thuật đàm phán quốc tế, luật quốc tế, khoa học - công nghệ tiên tiến… thông qua việc tiếp tục cử cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở cả trong nước và  ngoài nước. Bên cạnh việc cải cách, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, việc thúc đẩy hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo các chuyên ngành kinh tế quốc tế cũng hết sức cần thiết.

Như vậy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là tất yếu khách quan; là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; không chỉ tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực nước ngoài để phát triển đất nước mà còn khẳng định vị thế, uy tín, trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng thế giới, tạo ra sự đan cài lợi ích để chủ động phòng ngừa, bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa trong bối cảnh mới.

Trần Nhị Huyền/Đảng bộ DLBĐ