Hiến pháp năm 2013: Sự bảo đảm cho tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước

Một là, phát huy mạnh mẽ dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Hiến pháp tiếp tục khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước (Điều 2). Tiếp tục quy định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Việc bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực là điểm mới, tiến bộ của Hiến pháp, vì đây là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, giá trị chung của nhân loại, có tác dụng hữu hiệu để các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, tránh việc lạm dụng, lợi dụng quyền lực…

Nhằm bảo đảm thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền lực nhà nước, cũng như phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của nhân dân, Hiến pháp đã quy định rõ, đầy đủ hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp (quyền bầu cử, ứng cử; quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền khiếu nại, tố cáo…), bằng hình thức dân chủ đại diện, không chỉ thông qua Quốc hội, HĐND (như Hiến pháp năm 1992) mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6). Tiếp tục quy định Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời bổ sung quy định Nhà nước được “tổ chức” theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 8).

Ngoài việc tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời, Hiến pháp quy định sâu sắc, toàn diện hơn, quy định cụ thể hơn về bản chất và bổ sung trách nhiệm của Đảng trước nhân dân về những quyết định của mình, không những tổ chức Đảng mà đảng viên của Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân còn thể hiện trong các quy định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội khác và thông qua các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

Nhà nước pháp quyền (cùng với kinh tế thị trường, quyền con người) là một trong những giá trị chung của nhân loại, là một trong những trụ cột chính, cơ bản cho sự phát triển ổn định, bền vững của một đất nước. Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp tiếp tục kế thừa những quy định tiến bộ, hợp lý của Hiến pháp năm 1992, đồng thời, bổ sung nguyên tắc “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) và quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước; bổ sung một số thiết chế độc lập là Kiểm toán Nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia. Cụ thể là:

- Về Quốc hội, nhằm đề cao dân chủ, tăng cường sự tham gia của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời, cũng là thể chế thực tiễn quy trình lập hiến ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời, sửa đổi, bổ sung theo hướng, Quốc hội không phải là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến (Điều 69).

Nhằm xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn theo Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới ban hành đã bổ sung một số quyền liên quan đến quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, như: Quyền quyết định và phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; quyền quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ (khoản 4 Điều 70).

Nhằm bảo đảm phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời, nâng cao vị thế của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo tinh thần cải cách tư pháp, Hiến pháp đã bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70).

Nhằm nâng cao hiệu, chất lượng công tác của cán bộ, kịp thời loại bỏ những cán bộ thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, ngoài việc quy định về bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, Hiến pháp đã bổ sung quy định về lấy phiếu tín nhiệm đối với những người này (khoản 8 Điều 70).

Nhằm nâng cao vai trò, vị trí, trách nhiệm của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Hiến pháp đã hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định đã được quy định trong luật.

Về Chủ tịch nước, Hiến pháp quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Đối với Chính phủ, Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Chính phủ; có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm báo cáo công tác với Chủ tịch nước (Điều 90). Đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ sung nhiệm vụ, thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp.

Về thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc thực hiện nhiệm vụ “thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại”, “Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh”, “thống lĩnh lực lượng vũ trang”, Hiến pháp đã bổ sung một số thẩm quyền của Chủ tịch nước như: Quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (khoản 5 Điều 88).

- Về Chính phủ, để phù hợp với quan điểm, nguyên tắc phân công, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội và bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94). Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phù hợp với vị trí, chức năng, tính chất của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội; chuyển thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính dưới cấp tỉnh sang thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khoản 8 Điều 74) nhằm phù hợp với tính chất và tầm quan trọng của việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, lãnh thổ, bảo đảm sự thận trọng, kỹ lưỡng, hiệu quả của việc điều chỉnh đơn vị hành chính, lãnh thổ.

- Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp bổ sung quy định về vị trí của Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân bảo đảm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và cải cách tư pháp; quy định có tính nguyên tắc về mô hình tổ chức Tòa án theo thẩm quyền và cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Giữ quy định về chức năng của Viện kiểm sát là thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và đặt ở Chương về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân như Hiến pháp năm 1992 nhằm tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong việc thực hiện các hoạt động liên quan đến việc thực hiện quyền tư pháp; bảo đảm ổn định tổ chức bộ máy nhà nước.

Việc bổ sung hai thiết chế độc lập là Kiểm toán Nhà nước và Ủy ban bầu cử quốc gia nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước và bảo đảm hơn nữa tính độc lập, khách quan trong công tác bầu cử hiện nay, phù hợp với nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, phân định những việc thuộc thẩm quyền của địa phương và Trung ương; những việc vừa thuộc thẩm quyền của Trung ương vừa thuộc thẩm quyền của địa phương; nâng cao vai trò kiểm tra, giám sát của Trung ương với chính quyền địa phương và bảo đảm sự tự chủ của địa phương trong cấu trúc nhà nước đơn nhất, Hiến pháp đã có một chương quy định mang tính khái quát về chính quyền địa phương (Chương IX) (thay cho Chương quy định về HĐND, UBND của Hiến pháp năm 1992).

Hai là, nâng cao nhận thức, công nhận, tôn trọng và nâng cao hiệu quả bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân Hiến pháp năm 1992 là bước phát triển quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển con người, thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đã tạo lập khuôn khổ hiến định cho việc tiếp tục củng cố, phát triển quyền con người, quyền công dân phù hợp với các đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời, bảo đảm sự phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, sau hơn 21 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 với những điều kiện và những nhận thức mới, sâu sắc hơn về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp đã tiếp tục làm rõ, sâu sắc, khả thi hơn các nội dung, quan điểm về quyền con, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người; phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết”. Cụ thể:

- Nhằm đề cao quyền con người, quyền cơ bản của công dân, khẳng định giá trị chung của nhân loại, bảo đảm hội nhập quốc tế, Hiến pháp đã quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” tại Chương II (Hiến pháp năm 1992 quy định vấn đề này tại Chương V). Bổ sung một số quyền mới, thể hiện sự nhận thức sâu sắc, toàn diện giá trị quyền con người của Nhà nước ta, như: Quyền sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21); quyền sở hữu tư nhân (Điều 32); quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36); quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43).

- Nhằm tăng cường việc bảo đảm quyền con người, tránh sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền con người, Hiến pháp đã bổ sung một nguyên tắc hiến định là “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Điều 14). Có nghĩa là, trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền hạn chế quyền con người, quyền công dân bằng một văn bản luật.

- Cùng với quy định quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp cũng đã quy định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người, quyền công dân. Việc bổ sung nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” trong Hiến pháp cũng là một biện pháp tăng cường bảo đảm, bảo vệ quyền con người.
 
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trên nền tảng đó, Hiến pháp mới đã quy định rõ ràng hơn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối; tiếp tục khẳng định về hình thức sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước được giao thực hiện một số quyền năng nhất định nhằm bảo đảm quyền của toàn dân và lợi ích chung của xã hội; vai trò, quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân cũng được quy định rõ hơn, nhấn mạnh được chủ quyền của nhân dân trong vấn đề sở hữu. Cụ thể:

- Làm rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự phân công, phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng, địa phương và tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm vận hành thông suốt nền kinh tế (Điều 52). Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, không can thiệp vào thị trường bằng các mệnh lệnh hành chính mà tác động tích cực đến thị trường thông qua các chính sách phù hợp nhằm giảm tác động tiêu cực của thị trường; có biện pháp giám sát, kiểm soát hiệu quả đối với thị trường nhằm bảo đảm thị trường vận hành hiệu quả đáp ứng các mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm sức mạnh kinh tế của Nhà nước và là một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước tác động, bình ổn thị trường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển (Điều 51).

 

- Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với việc thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội; tạo môi trường và điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng, tổ chức thực thi các chính sách xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội nhằm bảo đảm công bằng và an sinh xã hội, vì lợi ích của nhân dân (Điều 57, 58, 59).

- Tiếp tục khẳng định vai trò then chốt, động lực của khoa học, công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong quá trình xây dựng nền kinh tế dựa trên tri thức. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học - công nghệ gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí; tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ (Điều 62).

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 là Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bảo đảm cho việc tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước ta trong tình hình mới.

 

BBT (tổng hợp)

Xem toàn văn hiến pháp tại đây.