Cách mạng tháng mười Nga với Nguyễn Ái Quốc


Vào năm 1921, ở giây phút Nguyễn gặp Đề cương cách mạng dân tộc và thuộc địa của Lênin, Cách mạng tháng Mười Nga chỉ mới thành công khoảng sau ba, bốn năm; cuộc sống của nhân dân Nga vẫn còn bề bộn bao khó khăn ghê gớm trong bủa vây của thù trong, giặc ngoài. Nguyễn chưa biết gì về cuộc sống đó. Thế nhưng, lòng yêu mến và sự ngưỡng mộ đối với Lênin trong lòng Nguyễn đã được thắp sáng, để ba năm sau, vào ngày Lênin mất, Nguyễn sẽ là người công dân phương Đông, và là người Việt Nam số một viết những lời thống thiết nhất đưa tiễn Người - vị lãnh tụ không chỉ của nước Nga, mà còn là của toàn thế giới thuộc địa, trong đó có Việt Nam - Tổ quốc anh. Cùng với Yêu sách của nhân dân Việt Nam (1919), Đông Dương thức tỉnh (1921), những bài viết về Lênin vào năm 1924-1925 của Nguyễn Ái Quốc có thể xem là những tùy bút chính luận (và trữ tình) đầu tiên trong mở đầu văn học hiện đại - cách mạng Việt Nam. “Lênin đã mất! Tin này đến với mọi người như sét đánh ngang tai, truyền đi khắp các bình nguyên phì nhiêu ở châu Phi và các cánh đồng xanh tươi ở châu Á. Đúng là những người da đen và da vàng chưa thể biết Lênin là ai, nước Nga ở đâu? Bọn đế quốc thực dân cố ý bưng bít không cho họ biết. Sự ngu dốt là một trong những chỗ dựa chủ yếu của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng tất cả họ, từ những người nông dân Việt Nam đến những người dân săn bắn trong các rừng Đa hô mây, cũng đã thường nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột họ và hiện đang tự quản lý lấy đất nước mình mà không cần đến bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rằng nước đó là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là Lênin”(1). Để rồi, ba năm sau, trong Đường Kách mệnh - văn kiện có ý nghĩa Cương lĩnh cho việc xây dựng một Đảng cách mạng (sẽ được thành lập vào năm 1930), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần V, 1924, Mát-xcơ-va 

Cũng cần nhớ lại, để bổ sung thêm, vào thời gian này, một cuộc gặp gỡ khác đã diễn ra, giữa Nguyễn Ái Quốc, trong tư cách một nhà cách mạng phương Đông, với nhà thơ Nga Ôxíp Mandenxtam; cuộc gặp đã được nhà thơ kể lại - trong những lời có thể gọi là tiên tri về Nguyễn: “Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp, tế nhị. Văn minh châu Âu trên đất nước ấy đã dùng lưỡi lê và rượu độc để thu dấu tất cả những đức tính tốt đẹp ấy của dân tộc Việt Nam xuống dưới cái áo dài đen của bọn cố đạo. Nhưng từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(2).

Ở hai cuộc gặp gỡ trên, một - hướng về phương Tây của nhà cách mạng Việt Nam, và một - hướng về phương Đông của nhà văn hóa Xô Viết - đó có thể xem là mối giao lưu giữa hai quốc gia, hai dân tộc, rồi sẽ còn có nhiều gắn bó với nhau trong suốt phần còn lại của thế kỷ XX.

Trở lại với lịch sử - từ năm 1924, ngày Lênin mất, Nguyễn đã rời Paris sang Matxcơva. Để từ đấy, nước Nga sẽ là địa chỉ quen thuộc, là môi trường sống, học tập, hoạt động của Nguyễn Ái Quốc; là nơi yên ổn nhất cho sự qua lại của Nguyễn trên các trục đường về phương Đông. Tất cả những tri thức về nước Nga mà Nguyễn Ái Quốc biết, rồi sẽ có dịp được Nguyễn Ái Quốc đưa vào một truyện kể có tên là Nhật ký chìm tàu. Một truyện kể - như một truyện viễn tưởng đối với nhân dân Việt Nam lúc ấy, nhưng lại là hiện thực một trăm phần trăm đối với người viết ra nó. Nhật ký chìm tàu được viết bằng Quốc ngữ và Nôm, vào năm 1930 - khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở quê hương Nguyễn vừa bị dập tắt. Nguyễn viết với mong muốn giữ vững lòng tin cho đồng bào, đồng chí trong nước, sau một cơn khủng bố trắng, qua những trang kể về nước Nga: “có chuyện lạ đời. Biến người nô lệ thành người tự do”(3).

Với Nhật ký chìm tàu, lần đầu tiên trong lịch sử, người dân thuộc địa ở Việt Nam được biết đến nước Nga và nhân dân Nga qua một chuyện kể, với 24 chương, mỗi chương được mở đầu bằng hai câu lục bát, về những sự thật mắt thấy tai nghe; về thế giới người dân Nga, từ nô lệ đã thành người tự do. Thế giới của những cải tạo, hồi sinh và xây dựng. Thế giới của những điều kỳ diệu mọc lên như trong cổ tích nhưng không có chút nào hoang đường. Một thế giới mà sự đánh giá không phải không phức tạp, nhưng đối với Nguyễn Ái Quốc lúc ấy, như sau này Trần Dân Tiên kể lại, thì hoàn toàn sáng rõ: “Có những kẻ cho nước Nga là một địa ngục. Có những người thì bảo nước Nga là một thiên đường. Đối với ông Nguyễn, nước Nga nhất định không phải là một địa ngục, nhưng lúc bấy giờ cũng chưa phải là một thiên đường, mà là một nước đang xây dựng có nhiều ưu điểm, nhưng tất nhiên chưa kịp sửa chữa hết những khuyết điểm. Đây đó người ta còn thấy những vết thương do chiến tranh để lại như những cảnh trẻ mồ côi, thiếu nhà ở, thiếu lương thực. Song những vết thương đang hàn gắn dần dần. Khắp nơi người ta phấn khởi, hy sinh, hăng hái làm việc”(4).

Cuốn truyện được viết theo lối kể dân gian truyền thống, cho đồng bào quê hương, vào mở đầu những năm 30, sau Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Những đồng chí, đồng bào sống tuổi thanh niên vào buổi ấy, đến bây giờ chắc không còn ai. Chưa thấy hồi ký nào ghi rõ một đôi mẩu chuyện cụ thể về tác động và sức mạnh cuốn sách. Chỉ biết bây giờ, bằng sự hồi phục lại từng mẩu, từng đoạn trong trí nhớ của những người còn sống sau đó, chúng ta đã lại có Nhật ký chìm tàu. Nhưng nếu hiểu sau một cơn khủng bố trắng, với cái chết của hàng trăm chiến sĩ cách mạng, của hàng ngàn quần chúng; với sự bình địa, khai quang nhiều vùng...; nếu hiểu từ ấy Nhật ký chìm tàu phải chịu sự truy đuổi, lùng quét, thủ tiêu, để đến hôm nay chúng ta chỉ còn một mảnh trang bìa, cùng giòng chữ “phi mại phẩm” (không phải để bán), hẳn có thể hình dung được ít nhiều sự run sợ của chính quyền đế quốc, cùng tác động của cuốn sách ra sao.

Những gì ghi trên giấy có thể bị tẩy xóa. Nhưng những gì được lưu giữ trong tâm óc con người thì không kẻ thù nào tiêu diệt nổi. Do vậy dân tộc ta, nhân dân ta sẽ vĩnh viễn không quên Nhật ký chìm tàu.

Một thế giới mới đã mở ra với sự hiện diện đích thực của nó ở chính cuộc đời trần thế này. Đó là nước Nga sau Cách mạng tháng Mười. Nước Nga với trí tuệ của Lênin, đến nước Nga với kết quả dựng xây, sáng tạo của hàng trăm triệu người lao động.

*

*    *

Nguyễn Ái Quốc không chỉ là tác gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam viết về Cách mạng tháng Mười và Lênin, viết về những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Trong sự nghiệp viết của mình, Nguyễn còn là tác giả Việt Nam đầu tiên chịu ảnh hưởng của văn học Nga qua những gì ông đã được đọc, và tập viết những áng văn đầu tiên theo phong cách hiện đại trên các báo chí tiến bộ ở Paris; trong đó người mà ông chịu ảnh hưởng trực tiếp là đại văn hào Lep Tonxtôi. Sự kiện này đã được Hồ Chí Minh kể lại cặn kẽ trong một bài báo nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của L. Tonxtôi(5).

Hơn 10 năm sau Nhật ký chìm tàu, ở hang Pác Bó - Cao Bằng ông ké cách mạng có tên Già Thu là người đầu tiên lược dịch một số nội dung Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô ra tiếng Việt(6); và dăm năm sau đó, Nguyễn Du Kích - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người dịch cuốn truyện Tỉnh ủy bí mật của Phê-đô-rốp, cuốn sách trở thành giáo khoa cho cách đánh du kích, là cách đánh rất thích hợp và phổ biến trong chiến tranh nhân dân chống Pháp ở Việt Nam.

Như vậy là, không ai khác, ngoài Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh, đã là người đầu tiên viết văn chính luận, văn kể chuyện, về nước Nga Xô Viết và Lênin; đã học tập văn học cổ điển Nga, và dịch tác phẩm văn học Nga... Những mối duyên gắn nối văn học Việt Nam với Cách mạng tháng Mười và văn học Nga Xô Viết đã có một lịch sử đáng nhớ gắn với tên tuổi một con người đứng ở vị trí khai sáng nền văn học cách mạng - hiện đại Việt Nam thế kỷ XX.
 
Chú thích:
(1) Lênin và các dân tộc thuộc địa; In bằng tiếng Nga đầu tiên trên Tạp chí Đỏ, số 2-1925; Tổng tập văn học Việt Nam, tập 36; Nxb Khoa học Xã hội; H.1980; tr.447.
(2) Báo Lửa nhỏ; số 39; 23-12-1923; In trong Văn hóa - nghệ thuật cũng là một mặt trận; NxbVăn học; H.1981; tr.477.
(3) Ninh Viết Giao sưu tầm và kể lại trên Tạp chí Văn học số 5-1971. Còn Niculin, như ông nói, từ 1958, ông “đã cầm trên tay Nhật ký chìm tàu của Bác Hồ”, nơi kho Lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô (Tuổi trẻ Chủ nhật; 4-2-1990).
(4) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nxb. Sự thật; H.1970; tr.59.
(5) Hồ Chí Minh: Báo Văn học (Liên Xô); ra ngày 19-11-1960.
(6) Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, câu thứ ba trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó; Thơ Hồ Chủ tịch; NxbVăn học; H.1967.
 
Giáo sư Phong Lê
Website ngheandost.gov.vn