Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 05/11/2013

Bộ Thông tin và Truyền thông giao ban quản lý nhà nước tháng 10/2013

Tại buổi giao ban, đại diện các đơn vị đã có ý kiến đóng góp cho bản báo cáo đánh giá tình hình công tác quản lý nhà nước tháng 10 và triển khai nhiệm vụ công tác trọng tâm tháng 11/2013. Theo dự thảo báo cáo, những kết quả nổi bật của Bộ trong tháng 10 bao gồm: hoàn thiện và tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 Nghị định, trong đó Nghị định số 132/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ sở pháp lý quan trọng để công tác quản lý nhà nước của Bộ tiếp tục được củng cố và thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới; trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ dự thảo 09 đề án; chỉ đạo tốt công tác tái cơ cấu, ổn định hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực thông tin và truyền thông; chỉ đạo tập trung thông tin, phản ánh toàn diện về cuộc đời, sự nghiệp và Lễ quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp; thông tin đầy đủ về kết quả Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; các hoạt động của
Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII; tổ chức lần đầu tiên diễn tập quốc gia về điều phối ứng cứu sự cố máy tính; sơ kết giai đoạn II, bước 1 của Dự án Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam; Phát động cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43; chú trọng việc mở chiến dịch nhắn tin ủng hộ chương trình “Chung sức vì đồng bào miền Trung”, kéo dài thời gian cho chương trình “Kết nối biển Đông” và tổ chức Lễ quyên góp ủng hộ đồng bào bị bão lụt miền Trung; Tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày Bưu chính Thế giới 9/10 và Lễ phát động cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43 với chủ đề “Hãy viết một bức thư diễn tả âm nhạc có thể lay động đời sống như thế nào”. Phát hành bộ tem “Kỷ niệm 100 năm sinh Trần Hữu Tước (1913-1983)”; Tổ chức Hội thảo triển khai IPv6 tại các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung, doanh nghiệp sản xuất thiết bị và phần mềm…
Tại địa phương, trong tháng 10, các Sở Thông tin và Truyền thông đã tập trung chỉ đạo các hoạt động liên quan đến công tác quản lý nhà nước về ngành trên địa bàn; chủ động rà soát công việc để tham mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh, thành phố ban hành các văn bản phục vụ công tác quản lý nhà nước về các đầu việc như: Chỉ đạo các cơ quan báo, đài tiếp tục tuyên truyền kết quả triển khai học tập các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 7; tiếp tục triển khai thanh tra diện rộng về quản lý thuê bao di động trả trước; Quyết định số 1178/QĐ-BTTTT ngày 23/09/2013 về Đề án triển khai dịch vụ chuyển mạng thông tin di động giữ nguyên số thuê bao tại Việt Nam; thực hiện tốt công tác thẩm định các dự án CNTT tại tỉnh Yên Bái và triển khai xây dựng dự thảo Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động các CQNN tỉnh, thành phố giai đoạn 2014-2015. Đặc biệt, trong tháng 10 này, Thái Nguyên dưới sự chỉ đạo của Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức thành công Triển lãm bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử”.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số tồn tại như: Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do Bộ ban hành còn thấp, khó hoàn thành kế hoạch đã đề ra. Việc tăng giá cước 3G của các doanh nghiệp viễn thông diễn ra đồng loạt, thiếu lộ trình trong khi công tác thông tin, giải thích trước khi tăng giá chưa thật sự đầy đủ, kịp thời nên còn gây nhiều bức xúc cho người dân. Tiến độ triển khai một số dự án đầu tư trong năm 2013 chậm, khối lượng giải ngân thấp.
Về các công tác trọng tâm tháng 11/2013 Bộ sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau: Xây dựng Chương trình công tác năm 2014 của Bộ TTTT trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, tiếp tục đẩy mạnh tiến độ xây dựng Luật an toàn thông tin; Hoàn thiện đề án tái cơ cấu VNPT theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng Nghị định quy định điều lệ tổ chức và hoạt động của VNPT sau khi Đề án tái cơ cấu VNPT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của VNPT, VNPost, VTC; Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, thu hồi và xử lý xuất bản phẩm có nội dung vi phạm Luật xuất bản. Quản lý chặt chẽ các ấn phẩm xuất bản có nội dung liên quan chủ quyền biên giới, biển, đảo và hình ảnh đất nước; Tập trung triển khai Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; Xây dựng chính sách quản lý đối với các dịch vụ liên lạc miễn phí trên mạng Internet (dịch vụ OTT), tổng hợp kết quả thanh tra diện rộng tình hình thực hiện Thông tư số 04/2012/TT-BTTTT về quản lý thuê bao di động trả trước; Tiếp tục tuyên truyền, triển khai chiến dịch nhắn tin “Kết nối biển Đông”, “Chung sức vì đồng bào miền Trung” qua Cổng thông tin 1400; Bảo đảm an toàn, an ninh mạng, hệ thống tên miền “.gov.vn”, “.vn”; đẩy mạnh triển khai IPv6...
Liên quan đến vấn đề tăng giá cước 3G đang được dư luận quan tâm trong thời gian vừa qua, ông Phạm Hồng Hải, Cục trưởng Cục Viễn thông đã cho biết, hiện nay, giá thành dịch vụ 3G là 167 đồng/1 Megabyte truy cập nhưng giá cước trung bình của các nhà mạng tại Việt Nam trước khi tăng chỉ khoảng 100 đồng/Megabyte, trong khi các nước trong khu vực khoảng 360 đồng/Megabyte. Giá bán của chúng ta hiện nay đang thấp hơn giá thành. Do đó, các doanh nghiệp xây dựng tăng, giảm và giữ nguyên một số gói. Số gói tăng trung bình khoảng 20%. Vì vậy sau khi thẩm định giá cước do doanh nghiệp đề xuất, Cục Viễn thông đã thẩm định và thấy đáp ứng được yêu cầu nên đã chấp nhận.
Ông Phạm Hồng Hải cũng cho biết, vừa qua, Cục Viễn thông đã làm việc với Cục Cạnh tranh – Bộ Công Thương. Về sở cứ pháp lý, Bộ Thông tin và Truyền thông có đủ điều khoản quy định để tăng giá cước. Quy định lớn nhất là giá cước viễn thông được xây dựng trên giá thành cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp không được bán dưới giá thành nhằm đảm bảo thị trường cạnh tranh lành mạnh. So với mặt bằng các nước trong khu vực và quốc tế, chúng ta sử dụng cũng chung như quốc tế.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Nam Thắng chỉ đạo Cục Viễn thông cần sớm hoàn thiện thông tư về quản lý giá cước mới, chuẩn bị hoàn thiện các nội dung để trìnhThủ tướng Chính phủ trong thời gian tới để sớm công khai các phương thức quản lý giá cước đang được dư luận đặc biệt quan tâm…
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, đối với vấn đề tăng cước dịch vụ 3G, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son cho biết, việc tăng giá cước 3G diễn ra là cần thiết, đúng quy phạm pháp luật và phù hợp với yêu cầu thị trường. Căn cứ vào Luật Viễn thông, Nghị định 25, Pháp lệnh về giá, Luật Cạnh tranh, các điều ước quốc tế thì việc tăng giá được thực hiện phù hợp với luật. Việc tăng giá là hợp lý vì giá thành thấp, lại hạ giá lâu, từ năm 2010.
Bộ trưởng cũng cho biết, hiện nay, người sử dụng 3G tại Việt Nam chiếm 20% tổng thuê bao di động trong tổng số 134 triệu thuê bao. Người sử dụng 3G để truy cập Internet là chủ yếu nên phải thanh toán quốc tế. Việc hạ thấp giá là không cạnh tranh lành mạnh. Tăng giá lên thì doanh nghiệp không chi phối thị trường sẽ thu hút được thêm khách hàng. Bộ trưởng cũng cho rằng việc tuyên truyền kịp thời là cần thiết. Việc tuyên truyền cũng cần giải thích cho xã hội biết 70% thiết bị viễn thông nằm trong giá thành. Nếu tuyên truyền kịp thời thì sẽ nhận sự đồng thuận của xã hội. Bên cạnh đó, cũng phải tuyên truyền có những gói cước 3G tăng, có gói giảm, có gói cước dung chứ không nên chỉ tuyên truyền gói cước tang như thời gian vừa qu.
Bộ trưởng đã chỉ đạo Cục Tần số Vô tuyến điện tạo điều kiện cho Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam thí điểm băng tần để nâng cao chất lượng 3G. Trong thời gian vừa qua VNPT đã đầu tư rất lớn vào việc thí điểm sử dụng băng tần với 44.000 trạm BTS để đảm bảo giá cao mà chất lượng cũng cao.
Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH qua hệ thống Bưu điện: Những kết quả đáng ghi nhận
Thuận tiện, nhanh chóng
Trước khi triển khai công việc này, nhân viên bưu điện đã được tập huấn về công tác chi trả lương hưu. Trong quá trình thực hiện công việc, nhân viên bưu điện đã dần dần tháo gỡ những vướng mắc nên công tác chi trả lương hưu theo cách mới đã đi vào quy trình. Đặc biệt, Bưu điện tỉnh đã xây dựng và triển khai chương trình phần mềm quản lý đối tượng hưởng lương hưu, chế độ BHXH qua hệ thống Bưu điện, phần mềm quét mã vạch sổ nên đã rút ngắn thời gian chi trả tại các điểm rất lớn. Với chương trình này, đơn vị đã thu thập, quản lý và cập nhật tất cả những thông tin cần thiết, liên quan đến đối tượng như: Ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ cụ thể, số điện thoại… (trước đây việc quản lý đối tượng chỉ được thực hiện thủ công và chỉ theo dõi đến địa bàn xã, phường, thị trấn không có địa chỉ cụ thể cũng như không có số điện thoại nên việc liên lạc, quản lý đối tượng gặp không ít khó khăn).
TP Hạ Long và TP Cẩm Phả là hai địa phương có số người lĩnh lương hưu và trợ cấp BHXH đông nhất, vì thế Bưu điện tỉnh đã bố trí nhiều điểm chi trả đảm bảo người đến nhận lương không bị chậm trễ. Ngoài việc bố trí tại các điểm bưu cục, Bưu điện tỉnh đã bố trí tại TP Hạ Long 21 điểm và Cẩm Phả là 35 điểm.

Bác Đoàn Trọng Phu, cán bộ nghỉ hưu phường Hà Tu, TP Hạ Long nhận xét, việc chi trả lương hưu qua bưu điện thuận lợi hơn trước. Người nào đến trước được nhận trước, không phải xếp hàng, chỉ khoảng 5 đến 10 phút là được trả ngay, trong lúc chờ đợi có bàn uống nước, đọc báo và được nhân viên bưu điện đón tiếp tận tình. Trước đây, tại phường, xã không có sổ sách lĩnh tiền cho nên thường xuyên phải ra tận nơi mới nhận được lương hưu, còn bây giờ bưu điện đã làm một sổ theo dõi lĩnh lương hưu cho nên chỉ cần có giấy uỷ quyền, con cháu cũng có thể ra lĩnh hộ.
Cùng chung nhận xét, tại điểm chi trả Bưu điện TP Cẩm Phả, bác Trần Đình Văn, cán bộ hưu trí phường Cẩm Bình cho biết: Tôi thấy việc chi trả lương hưu qua bưu điện nhanh gọn, thuận tiện hơn. Quả thật tôi thấy lĩnh tiền theo hình thức này thấy thoải mái và thuận tiện. Trường hợp nếu có cụ ông, cụ bà nào ốm đau không đến nhận được thì nhân viên Bưu điện đến tận nhà đưa tiền cho các cụ mà không tính thêm đồng phí nào. Nhân viên Bưu điện rất nhiệt tình giải đáp thắc mắc về chế độ bảo hiểm. Lịch lĩnh lương cố định hằng tháng, nếu vào thứ bảy hoặc chủ nhật, nhân viên bưu điện vẫn chi trả tiền lương hưu cho chúng tôi. Ngoài ra, tại các điểm chi trả đều có các quyển sổ góp ý để người dân góp ý nhận xét nhằm giúp Bưu điện phục vụ tốt hơn.
Phát huy lợi thế cơ sở vật chất, bảo đảm quyền lợi người được hưởng
Theo đánh giá của nhiều người dân, trong quá trình chi trả, nhân viên Bưu điện thực hiện nghiêm túc các quy định quản lý và nghiệp vụ chi trả do BHXH quy định. Tỷ lệ chi trả hàng tháng cao, công tác an toàn tiền từ khâu tiếp nhận, bảo vệ quỹ két, vận chuyển tiền trên đường cũng như chi trả cho đối tượng tại điểm chi trả đều đảm bảo; thời gian chi trả đúng hợp đồng đã ký kết với cơ quan BHXH; các kỳ chi trả không phát sinh các thắc mắc khiếu nại về chi thiếu, chi sai…
Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH qua hệ thống Bưu điện đã chứng tỏ là một dịch vụ mang lại nhiều lợi ích. Cụ thể, người hưởng được nhận tiền thuận tiện tại hệ thống điểm giao dịch với cơ sở vật chất đồng bộ và thống nhất, cũng như dễ dàng hơn khi có nhu cầu kết hợp dịch vụ của BHXH với các dịch vụ tiết kiệm, bảo hiểm, ngân hàng, chuyển tiền, bưu phẩm, bưu kiện, phát hành báo chí, các dịch vụ viễn thông do Bưu điện cung cấp. Đối với cơ quan BHXH, họ sẽ xây dựng được mạng lưới chi trả chuyên nghiệp, quản lý chặt chẽ, đồng bộ bởi doanh nghiệp nhà nước lớn, có uy tín, đảm bảo an toàn nguồn chi, giảm thời gian phục vụ.
Việc chi trả này còn từng bước thể hiện vai trò của ngành Bưu điện trong việc tiếp cận và cung cấp các dịch vụ công của Nhà nước đến cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng công tác an sinh xã hội và lợi ích chung của toàn xã hội.
Điện Biên: 29 xã biên giới khó khăn về thông tin
Trong số 29 xã, hiện có 24 xã có điểm bưu điện văn hóa xã hoạt động cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông nhưng trong đó có 13 điểm đã xuống cấp nghiêm trọng. Trong quản lý, phát triển Internet, hiện chỉ có 103/313 thôn, bản thuộc 29 xã này có mạng Internet.
Theo Sở Thông tin và Truyền thông Điện Biên, từ nay đến năm 2015, sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp viễn thông phát triển hạ tầng viễn thông xây dựng trạm BTS và kéo đường truyền cáp quang, mở rộng vùng phủ sóng thông tin di động và cung cấp dịch vụ Internet đến 100% các thôn, bản thuộc 29 xã; đầu tư xây dựng mới 16 điểm bưu điện văn hóa xã; nâng cấp 13 điểm...
LienVietPostBank khai trương Chi nhánh Phú Thọ tại TP. Việt Trì
Phú Thọ cùng với Vĩnh Phúc, Nam Định, Lào Cai và Quảng Bình là 05 chi nhánh cấp tỉnh/thành mà Ngân hàng Bưu điện Liên Việt gần đây đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép thành lập, bao gồm. Cả 5 chi nhánh này dự kiến đều chính thức đi vào hoạt động tháng 10/2013.
PTI chi trả hơn 600 triệu cho nạn nhân vụ lật xe tại Lào Cai
Đối với mỗi khách hàng bị tử nạn, PTI đang phối hợp với chủ xe chi trả cho mỗi gia đình nạn nhân 70 triệu đồng. Đối với những hành khách bị thương, PTI cũng đã đến bệnh viện thăm hỏi và tạm ứng tổng số tiền hơn 100 triệu đồng để hỗ trợ hành khách có thêm kinh phí chữa trị. Số tiền bồi thường còn lại sẽ được PTI tiếp tục chi trả sau khi chủ xe hoàn thiện đầy đủ hồ sơ yêu cầu bồi thường.
Xe khách mang biển số 15B-010.76 đã mua sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc tại Bảo hiểm Bưu điện Hải Phòng với mức trách nhiệm 70 triệu đồng/hành khách trên xe. Ngày 25/10, xe khách trên chở 47 người, trong đó có 1 cháu nhỏ xuất phát từ Hải Phòng đi lễ đền Bảo Hà, đã lao xuống vực sâu 30m lúc 18 giờ 30 phút, khiến 8 hành khách tử vong và 38 người bị thương. Điểm xảy ra tai nạn cách thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên khoảng 9km.
Theo thông tin từ Bộ Giao thông và Vận tải tình hình tai nạn giao thông 9 tháng đầu năm 2013 có xu huớng giảm so với thời điểm cùng kỳ năm 2012 nhưng lại tăng về số người chết. Cụ thể, tính đến hết tháng 9 năm 2013, đã xảy ra 21.861 vụ tai nạn, làm chết 7040 người, bị thương 21.780 người. Nguyên nhân số người chết tăng vì trong các tháng đầu năm 2013 số vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến xe khách, xe tải nặng, xe conterner tăng cao.
PTI: 9 tháng hoàn thành 65% kế hoạch lợi nhuận cả năm
9 tháng đầu năm 2013, CTCP Bảo hiểm Bưu điện (mã PTI - HNX) đạt 35,4 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, hoàn thành 65% kế hoạch cả năm.
HĐQT của PTI đã thông qua kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm, vớidoanh thu từ kinh doanh bảo hiểm đạt 1.078 tỷ đồng, hoàn thành 71% kế hoạch năm. Trong đó, doanh thu bảo hiểm gốc là 1.018 tỷ đồng (riêng doanh thu bảo hiểm gốc từ Vinasat và Mekong Air đạt 10,9 đồng), tái bảo hiểm đạt 60,235 tỷ đồng;
Lợi nhuận đầu tư 9 tháng đầu năm của PTI đạt 64,1 tỷ đồng còn lợi nhuận sau thuế đạt 35,4 tỷ đồng, hoàn thành 65% kế hoạch cả năm.
Bên cạnh đó, HĐQT của PTI cũng đã thông qua kế hoạch kinh doanh đến cuối năm 2013, trong đó doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm dự kiến đạt 1.523 tỷ đồng, tăng 3% so với cùng kỳ. Chỉ tiêu bảo hiểm gốc dự kiến đạt 1.435 tỷ đồng còn tái bảo hiểm là 88 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế năm 2013 đạt 54,2 tỷ đồng, giảm 15% so với cùng kỳ.
Trong một tháng qua, giá cổ phiếu PTI bình quân dao động trong biên độ 10.000 – 11.000 đồng/cp, khối lượng giao dịch bình quân là 6.799 đơn vị, trị giá giao dịch bình quân là 72,2 triệu đồng/phiên.

Theo Người đồng hành
Những điểm mới của Bộ Luật Lao động năm 2012
Ngày 18 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIII nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Lao động năm 2012 và ngày 02 tháng 7 năm 2012, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố và Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 05 năm 2013, bao gồm 17 Chương và 242 Điều.
So với Bộ luật Lao động năm 1994 (kể cả các lần sửa đổi, bổ sung trước năm 2012) thì Bộ luật Lao động năm 2012 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Lao động) có những điểm mới sau:
1. Những vấn đề quy định chung
Bộ luật Lao động đã bổ sung 01 Điều về giải thích từ ngữ, trong đó quy định rõ một số khái niệm như: “Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động” Khoản 6, Điều 3) và các khái niệm khác như tổ chức đại diện người sử dụng lao động, cưỡng bức lao động… Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động còn quy đinh cụ thể về quyền đóng cửa tạm thời doanh nghiệp, quyền gia nhập hoạt động trong Hội nghề nghiệp của người sử dụng lao động, về trách nhiệm đối thoại của người sử dụng lao động với tập thể lao động, về chính sách của nhà nước về lao động, bao gồm cả quản lý nguồn nhân lực, dạy nghề, thị trường lao động, quan hệ lao động và đặc biệt là có quy định về nghĩa vụ thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở của người sử dụng lao động (Điểm b, Khoản 2, Điều 6).
2. Về việc làm
Bộ luật lao động đã quy định về chức năng của Tổ chức dịch vụ việc làm là: “…tư vấn, giới thiệu việc làm và dạy nghề cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, cung cấp thông tin về thị trường lao động và thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật” (Khoản 1, Điều 14) cho phù hợp trong điều kiện mới và đã chuyển nội dung quy định về trợ cấp mất việc làm sang Chương III “Hợp đồng lao động” và quy định cụ thể về cách tính trợ cấp mất việc làm khi đã có chế độ Bảo hiểm thất nghiệp (Điều 49, Mục 3, Chương III).
3. Về Hợp đồng lao động
Đây là chế định trung tâm của Bộ luật Lao động gồm 48 điều trên tổng số 242 điều của Bộ luật, chia thành 5 mục với những nội dung chủ yếu sau:
- Quy định về cho thuê lại lao động trong Mục 5, Chương III. Theo đó: “Cho thuê lại lao động là việc người lao động đã được tuyển dụng bởi doanh nghiệp được cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động sau đó làm việc cho người sử dụng lao động khác, chịu sự điều hành của người sử dụng lao động sau và vẫn duy trì quan hệ lao động với doanh nghiệp cho thuê lại lao động”(Khoản 1, Điều 53), đồng thời trong Mục này cũng quy định cụ thể về hình thức sử dụng loại hình lao động này. Đây là quy định mới nhằm mở rộng các quan hệ lao động mới hình thành cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
- Bổ sung nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động trên tinh thần tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực và hợp tác nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể (nếu có) và đạo đức xã hội, các quy định khác nhằm minh bạch hóa các giao kết hợp đồng lao động (Mục 1, Chương 3)
- Về loại hợp đồng lao động, Bộ luật lao động cơ bản vẫn giữ như quy định hiện hành, tuy nhiên đối với hai loại hợp đồng lao động là Hợp đồng lao động xác định thời hạn và Hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì trong trường hợp đã hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới. Nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì loại hợp đồng lao động xác định thời hạn mà hai bên đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn; còn loại hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc có thời hạn dưới 12 tháng trở thành loại hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.
Ngoài ra, trong Chương III, Bộ luật lao động cũng bổ sung nhiều quy định mới liên quan đến Hợp đồng lao động nhằm xác định rõ, minh bạch các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện Hợp đồng lao động theo hướng bảo vệ người lao động là nhóm người yếu thế trong quan hệ lao động như: quy định về Phụ lục hợp đồng lao động để hai bên có thể dùng phụ lục hợp đồng để giao kết những nội dung mới so với nội dung đã có; quy định nâng mức lương thử việc của người lao động trong thời gian thử việc, ít nhất phải bằng 85% mức lương cấp bậc của công việc đó; bổ sung quy định mới về hình thức làm việc không trọn thời gian nhằm đảm bảo các chế độ lao động đối với người lao động khi thỏa thuận với người sử dụng lao động lựa chọn hình thức làm việc này; bổ sung một số nội dung quan trọng về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động như: người lao động bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, người lao động chết; bổ sung mức tiền mà người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động trong trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật; bổ sung điều mới về việc phải lập phương án sử dụng lao động của người sử dụng lao động trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ, vì lý do kinh tế, sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã mà việc này có nguy cơ làm nhiều người lao động mất việc làm, thôi việc và bổ sung nhóm quy định mới gồm 3 điều quy định về hợp đồng lao động vô hiệu, trong đó quy định các trường hợp được coi là hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ, vô hiệu từng phần.
4. Về đối thoại tại nơi làm việc, Thương lượng tập thể, Thỏa ước lao động tập thể
Chế định này được quy định thành một chương (Chương V, 24 điều) với những nội dung mới sau đây:
- Quy định về Đối thoại tại nơi làm việc, theo đó xác định “Đối thoại tại nơi làm việc nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường sự hiểu biết giữa người sử dụng lao động và người lao động để xây dựng quan hệ lao động tại nơi làm việc”(Khoản 1, Điều 63), đồng thời xác định rõ mục đích, hình thức đối thoại và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại nơi làm việc.
- Quy định về Thương lượng tập thể để xác định rõ hơn về mục đích, nguyên tắc, quyền yêu cầu thương lượng tập thể, đại diện thương lượng, nội dung, quy trình và trách nhiệm của các bên trong thương lượng tập thể. Trong đó, Bộ luật lao động đã quy định rõ về trách nhiệm của tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động trong thương lượng tập thể, theo nguyên tắc là không trực tiếp can thiệp vào quá trình thương lượng, thoả thuận của hai bên, nhưng phải hỗ trợ tích cực hai bên trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể.
Ngoài ra, Bộ luật lao động còn bổ sung một số quy định về Thỏa ước lao động tập thể nhằm bảo đảm cho các Thỏa ước lao động tập thể phát huy được tác dụng cao phù hợp với các phương thức hoạt động trong các loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay.
5. Về tiền lương
Đây là Chế định quy định cụ thể liên quan trược tiếp đến lợi ích của người lao động được quy định tại Chương VI, có 14 điều với những nội dung mới như sau:
Về cơ cấu tiền lương, Bộ luật lao động qui định: Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Việc trả lương phải được thực hiện một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau (Điều 90).
Đặc biệt, Bộ luật lao động bổ sung quy định việc thành lập Hội đồng tiền lương quốc gia, trong đó có sự tham gia của tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương, là cơ quan tư vấn cho Chính phủ để nghiên cứu, khuyến nghị Chính phủ trong việc điều chỉnh, công bố mức lương tối thiểu nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động trong điều kiện diễn biến giá cả phức tạp của kinh tế thị trường, giúp cho người lao động có khả năng phục hồi sức lao động nhằm bảo vệ người lao động.
Ngoài ra, Bộ luật lao động cũng bổ sung quy định về người sử dụng lao động thay đổi hình thức trả lương, về tiền lương làm thêm giờ trong trường hợp người lao động làm thêm giờ vào ban đêm, về thời gian tạm ứng tiền lương trong trường hợp người lao động tạm thời nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân…
6. Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Đây là những quy định nhằm bảo vệ sức lao động cho người lao động, tạo điều kiện để người lao động có thể phục hồi sực khỏe sau thời gian làm việc. Nội dung này được quy định tại Chương VII, có 14 điều với những nội dung mới như sau:
- Bộ luật lao động thống nhất một mốc chung để áp dụng trong cả nước về giờ làm việc ban đêm được tính từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm sau (Điều 105). Đồng thời, Bộ luật lao động cũng bổ sung quyền của người sử dụng lao động trong việc quy định làm việc theo giờ hoặc ngày hoặc tuần để người sử dụng lao động chủ động xây dựng kế hoạch bố trí lao động phù hợp với ngành nghề cụ thể nhằm đạt năng suất cao và những trường hợp đặc biệt, người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ như: Thực hiện lệnh động viên, huy động đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật; thực hiện các công việc nhằm bảo vệ tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh và thảm họa (Điều 107).
- Về nghỉ trong giờ làm việc, Bộ luật lao động bổ sung trường hợp những người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định mà thời giờ làm việc không quá 6 giờ trong một ngày thì thời gian nghỉ giữa giờ ít nhất là 30 phút và tính vào giờ làm việc; bổ sung thêm 01 ngày nghỉ tết âm lịch từ 4 ngày lên 5 ngày, nâng tổng số ngày nghỉ lễ, tết trong một năm là 10 ngày và quy định mở rộng các trường hợp được nghỉ không hưởng lương của người lao động như: khi ông, bà nội ngoại, anh, chị, em ruột chết; bố hoặc mẹ kết hôn; anh, chị, em ruột kết hôn (Mục 3).
7. Về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất được quy định tại Chương VIII gồm 15 điều, bao gồm những quy định nhằm bảo vệ các quan hệ lao động, ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và người sử dụng lao động, góp phần tạo điều kiện cho các quan hệ lao động ổn định và phát triển. Nội dung này có những điểm mới sau đây:
- Về kỷ luật lao động, Bộ luật lao động bổ sung nghĩa vụ của người lao động trong việc đảm bảo bí mật sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động; bổ sung quy định người sử dụng lao động phải nộp hồ sơ đăng ký nội quy lao động trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ban hành nội quy lao động; hồ sơ nội quy lao động phải đăng ký tại Sở Lao động, Thương binh và Xã hội và bản nội quy lao động có hiệu lực sau thời hạn 15 ngày kể từ ngày cơ quan lao động cấp tỉnh nhận được hồ sơ đăng ký.
- Về kỷ luật lao động, Bộ luật lao động bỏ hình thức xử lý kỷ luật chuyển đi làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời gian tối đa không quá 6 tháng; quy định hình thức xử phạt kỷ luật lao động nặng nhất là sa thải và bổ sung thêm các hành vi khi người lao động vi phạm sẽ bị sa thải là: đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động hoặc hành vi đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động. Ngoài ra, Bộ luật lao động đã làm rõ khái niệm tái phạm, theo đó “Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật” (Đoạn 2, Khoản 2, Điều 126) và bổ sung quy định cấm người sử dụng lao động khi xử lý vi phạm kỷ luật lao động thực hiện các hành vi: xâm phạm thân thể, nhân phẩm của người lao động; dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động…
8. Về an toàn lao động và vệ sinh lao động
Đây là những quy định điều chỉnh các quan hệ lao động nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người lao động, phát triển sản xuất, được quy định tại Chương IX, Bộ luật lao động, gồm 20 điều với những điểm mới như sau:
- Bổ sung một số chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động bằng việc khuyến khích phát triển các dịch vụ an toàn lao động, vệ sinh lao động để đáp ứng ngày càng tốt hơn đến việc chăm sóc sức khoẻ, đảm bảo an toàn cho người lao động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp như các quy định về người sử dụng lao động phải cử người làm công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động, đối với những cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực có nhiều nguy cơ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Quy định rõ các trách nhiệm của người sử dụng lao động như: phải chủ động xây dựng phương án xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp và định kỳ tổ chức việc diễn tập để sẵn sàng xử lý tốt các tình huống; có tránh nhiệm đối với người bị tai nạn lao động, người học nghề, tập nghề và thử việc; phải lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động khi xây dựng kế hoạch sản xuất hàng năm của doanh nghiệp.
9. Về những quy định đối với người lao động nữ
Người lao động nữ là một trong những nhóm người lao động đặc thù bởi đặc điểm tâm, sinh, lý riêng và thiên chức riêng có của người phụ nữ trong xã hội. Do vậy, người lao động nữ cần có những quy định riêng, được Bộ luật lao động điều chỉnh trong Chương X gồm 8 điều nhằm bảo vệ sức lao động trong nhóm người lao động này. Những quy định đối với người lao động nữ có những điểm mới sau đây:
- Người sử dụng lao động đối với lao động nữ phải thực hiện các nguyên tắc bình đẳng giới không những trong tuyển dụng, sử dụng mà còn trong đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác.
- Người lao động nữ được bổ sung các quyền như: được nghỉ chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội trước và sau khi sinh con là 06 tháng và cho phép lao động nữ có thể nghỉ trước sinh với thời gian không quá 2 tháng; có quyền đi làm việc sớm mà điều này không có hại cho sức khỏe của họ; lao động nữ sau khi sinh trong trường hợp không có việc làm cũ, thì họ vẫn được người sử dụng lao động bố trí việc làm khác với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản và một số trường hợp lao động nữ được hưởng trợ cấp khi nghỉ để chăm sóc con ốm hoặc thực hiện các biện pháp khác như nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý... nhằm phù hợp với quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
10. Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một số lao động đặc thù
Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một số lao động đặc thù được quy định tại Chương XI gồm 25 điều nhằm điều chỉnh các quan hệ lao động đặc thù trong đó quy định người lao động là người chưa thành niên hoặc những quan hệ lao động mới xuất hiện trong điều kiện Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế… Nội dung này có những điểm mới cụ thể như sau:
- Đối với lao động chưa thành niên, Bộ luật lao động bổ sung nguyên tắc chung là không được sử dụng người chưa thành niên sản xuất và kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác; đồng thời chia lao động chưa thành niên thành 4 nhóm tuổi nhằm đưa ra các quy định về điều kiện lao động phù hợp khi đối tượng này tham gia vào quan hệ lao động. Đồng thời, Bộ luật lao động có những quy định cụ thể các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động dưới 15 tuổi như công việc: mang, vác các vật nặng vượt quá thể trạng; sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ; bảo trì, bảo dưỡng thiết bị máy móc; phá dỡ các công trình xây dựng…
- Đối với các nhóm người lao động mới hình thành trong điều kiện mới, Bộ luật lao động bổ sung một số quy định mới với hai nhóm người là người lao động là người nước ngoài và người lao động là người giúp việc gia đình.
Với nhóm người lao động là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, Bộ luật lao động bổ sung điều kiện cho nhóm đối tượng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc và thời hạn của giấy phép lao động tối đa là 2 năm.
Với nhóm người là người giúp việc gia đình, Bộ luật lao động bổ sung qui định về lao động là người giúp việc gia đình nhằm điều chỉnh dạng quan hệ việc làm đang tồn tại trong thực tế và có xu hướng phát triển và xác định rõ thế nào là lao động giúp việc gia đình và các các công việc mà người lao động giúp việc gia đình thực hiện. Đối với các công việc cũng là giúp việc gia đình nhưng theo hình thức khoán việc thì Bộ luật lao động năm 2012 không điều chỉnh.
11. Về Công đoàn
Công đoàn là tổ chức thực hiện vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong các đơn vị sử dụng lao động. Bộ luật lao động quy định về Công đoàn tại Chương XIII, gồm 6 Điều với những điểm mới như sau:
- Bỏ thời hạn phải thành lập tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp đang hoạt động mà chưa có tổ chức công đoàn và bỏ quy định trong thời gian chưa thành lập được tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp thì chỉ định Ban chấp hành công đoàn lâm thời, đồng thời xác định rõ chủ thể đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở là công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; quy định thêm các hành vi bị cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn và có những quy định cụ thể hơn quyền của cán bộ công đoàn cơ sở như: quyền gặp gỡ người sử dụng lao động để đối thoại, trao đổi, thương lượng về những vấn đề lao động và sử dụng lao động; đến với nơi làm việc để gặp gỡ người lao động trong phạm vi, trách nhiệm của mình đại diện…
12. Về giải quyết tranh chấp lao động
Trong quan hệ lao động, việc xảy ra những bất đồng, những mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và người lao động là không thể tránh khỏi, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam mở rộng hội nhập, khi các Doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động là người nước ngoài và ngược lại càng trở nên phức tạp. Do vậy, việc giải quyết tranh chấp lao động cần phải được quy định chặt chẽ trong Bộ luật lao động nhằm bảo vệ quan hệ lao động tốt, góp phần phát triển sản xuất và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Bộ luật lao động dành Chương XIV gồm 5 Mục, 41 Điều để quy định những vấn đề này với những điểm mới sau:
- Quy định rõ tranh chấp lao động tập thể bao gồm tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích; mở rộng cơ chế giải quyết tranh chấp lao động và đình công đến tất cả các đơn vị có sử dụng lao động theo quy định; bỏ quy định về Hội đồng hoà giải cơ sở và không cho phép đình công đối với các tranh chấp lao động tập thể về quyền. Trong trường hợp này, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động, nếu các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết, thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đối với tranh chấp tập thể về lợi ích sẽ do Hội đồng trọng tài giải quyết, đồng thời bổ sung trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc xác định loại tranh chấp lao động tập thể là về quyền hoặc lợi ích trong trường nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp tập thể và trách nhiệm hướng dẫn các bên đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và bổ sung thẩm quyền hoãn và ngừng đình công cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi xét thấy cuộc đình công có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân, lợi ích công cộng và giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
- Bộ luật lao động cùng bổ sung quyền đóng cửa tạm thời doanh nghiệp của người sử dụng lao động trong thời gian đình công (Điều 216, 217).
Trên đây là những điểm mới cơ bản của Bộ luật lao động năm 2012 nhằm tiếp tục điều chỉnh các quan hệ lao động phù hợp trong điều kiện mới theo hướng khuyến khích, bảo vệ và phát triển những quan hệ lao động tốt, phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần quan trọng trong việc tiếp tục phát triển sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam hiện nay.
Cấp bổ sung 5 ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Theo đó, cấp bổ sung 5 ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Cụ thể, trang chuyên đề Dân tộc miền núi của Báo Nhân Dân cấp 104 kỳ/năm (02 kỳ/tuần) cho người có uy tín vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định số 18/2011/QĐ-TTgngày 18/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi người 1 tờ/kỳ.
Chuyên đề Đoàn kết và Phát triển trực thuộc Tạp chí Cộng sản cấp 24 kỳ/năm (2 kỳ/tháng) cho người có uy tín vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi người 1 tờ/kỳ.
Thông tin Cựu chiến binh trực thuộc Hội Cựu chiến binh Việt Nam cấp 12 kỳ/năm (1 kỳ/tháng) cho Hội cựu chiến binh xã đặc biệt khó khăn, Chi hội cựu chiến binh thôn bản thuộc các xã đặc biệt khó khăn, Chi hội cựu chiến binh thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II, Hội cựu chiến binh xã biên giới, Hội cựu chiến binh 69 huyện nghèo, mỗi đơn vị 1 tờ/kỳ.
Báo Tiền phong trực thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp 260 kỳ/năm (5 kỳ/tuần) cho Huyện Đoàn của 69 huyện nghèo. Ngoài ra, cấp cho trường phổ thông trung học Dân tộc nội trú, trường phổ thông trung học thuộc 69 huyện nghèo; Đoàn xã thuộc 69 huyện nghèo, Đoàn xã đặc biệt khó khăn, Đoàn xã biên giới, hải đảo không thuộc 69 huyện nghèo. Mỗi đơn vị được cấp 1 tờ/kỳ.
Chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi của Tạp chí Thuế Nhà nước trực thuộc Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính cấp 24 kỳ/năm (2 kỳ/tháng) cho Ủy ban nhân dân xã thuộc 69 huyện nghèo; Ủy ban nhân dân xã đặc biệt khó khăn, Ủy ban nhân dân xã biên giới không thuộc 69 huyện nghèo; Đồn, trạm, đội công tác biên phòng, mỗi đơn vị 1 tờ/kỳ.