Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 10/08/2012

Tin trong nước
Tuổi trẻ VNPT xung kích vì sự phát triển bền vững
tại huyện đảo Lý Sơn
Nhiệm kỳ 2005-2012, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng với tinh thần xung kích sáng tạo, công tác Đoàn và phong trào thanh niên ở VNPT thường xuyên được đổi mới phù hợp với môi trường làm việc, học tập của đoàn viên, thanh niên.
Phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc" và "4 đồng hành cùng thanh niên lập thân, lập nghiệp” được Đoàn Thanh niên VNPT triển khai sâu rộng, bám sát nhiệm vụ của đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng và kết quả hoạt động của từng đơn vị và toàn Tập đoàn.
Nhiệm kỳ 2005-2012, đoàn viên thanh niên trong Tập đoàn đã thực hiện trên 500 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong lao động sản xuất, 160 đề tài nghiên cứu khoa học, 177 công trình, phần việc thanh niên gắn chặt với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, làm lợi cho doanh nghiệp hàng chục tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các phong trào xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng được Đoàn Thanh niên Tập đoàn triển khai hiệu quả, thu hút đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia, cụ thể như các hoạt động tặng quà, sách vở, giấy bút, quần áo cho trẻ em, học sinh và tặng quà các gia đình chính sách ở Lai Châu, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Quảng Trị; phổ cập tin học và nối mạng tri thức’ tổ chức khám chữa bệnh miễn phí cho 2000 người dân; tổ chức các hoạt động nhân dịp ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7)... Tổng số tiền đoàn viên thanh niên VNPT ủng hộ hoạt động an sinh xã hội là hơn 10 tỷ đồng.
Hưởng ứng Cuộc vận động “Hiến máu nhân đạo”, các cơ sở Đoàn trong Tập đoàn đã tổ chức tuyên truyền, vận động hơn 1.500 đoàn viên, thanh niên tham gia hiến máu nhân đạo, kết quả đã thu được gần 1.200 đơn vị máu.
Cùng với các hoạt động vì cuộc sống cộng đồng, tuổi trẻ VNPT còn tham gia các hoạt động xung kích, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ...
Trong nhiệm kỳ qua, gần 800 đoàn viên ưu tú vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng và được các cấp ủy tin tưởng bổ nhiệm giữ các chức vụ giám đốc, phó giám đốc các chi nhánh; trưởng, phó các phòng ban trong các đơn vị...
Tại Đại hội, các đại biểu tham dự hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Tập đoàn Bưu chính Viễn thông nhiệm kỳ 2012- 2017 gồm 21 đồng chí và bầu 9 đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu Đoàn Khối Doanh nghiệp Trung ương lần thứ II.
Thừa Thiên Huế: Giám sát hoạt động của các điểm bưu điện văn hóa xã
Đưa Internet về nông thôn
Hay đến BĐVH xã Mỹ Tài, Mỹ Chánh Tây là những địa phương nghèo, dân chủ yếu sống bằng nghề nông, thương mại ít phát triển có nơi xa trường học nhưng lứa tuổi học sinh đến với internet khá đông, mỗi điểm có 6 máy chỉ trống 1-2 máy. Hầu hết các em lên mạng mục đích na ná như nhau, để chơi trò chơi điện tử, tìm kiếm thông tin, thực hành máy tính… Em Nguyễn Hữu Tín (Mỹ Tài): Lên mạng do thói quen khi học trung cấp công nghệ thông tin, chủ yếu đọc báo, tìm nơi tuyển dụng… Một số ít nông dân cấp tiến, làm ăn giỏi thỉnh thoảng dẫn theo con, em biết vi tính đến BĐVHX lên mạng tìm kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt. Rất đơn giản, vào internet, chỉ cần gõ địa chỉ trang tìm kiếm (google.com.vn) rồi gõ nội dung cần tìm là có tất cả.
Thực tế cho thấy, so cách đây 5-6 năm thì lượng người vào internet ở BĐVHX nhiều hơn gấp nhiều lần. Yêu cầu đòi hỏi phải phát triển mạng máy tính cho nông thôn là cần thiết.
lnternet bưu điện văn hóa xã:
Nếu so với cách đây vài ba năm thì lượng máy vi tính cho các điểm BĐVHX tăng gần gấp 2 lần. Tăng giảm là do nhu cầu của từng điểm, của người dân, và bưu điện tỉnh đầu tư trang bị.
Doanh thu từ internet của BĐVHX cũng không đồng đều. Địa bàn trù phú, phát triển kinh tế mạnh, tập trung dân cư thì doanh thu cao, còn miền núi, nơi kém phát triển thì thu thấp không đủ bù chi. Cụ thể có một số điểm doanh thu từ 3-4 triệu đồng/tháng (Hoài Sơn, Ân Phong, Cát Nhơn...) còn trung bình khoảng 1,5 triệu đồng/tháng. Nhiều điểm thu không đủ bù chi như các điểm ở huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, mỗi điểm chỉ từ 195-234 ngàn đồng/tháng. Nếu so sánh BĐVHX các huyện, thì hiệu quả nhất là huyện Hoài Nhơn. Ở đây có 13/13 điểm BĐVHX, doanh thu riêng dịch vụ internet điểm cao nhất 3,4 triệu đồng/tháng; thấp nhất trên 300 ngàn đồng/tháng.
Tổng cộng doanh thu internet BĐVHX cả tỉnh, mỗi tháng chưa được 100 triệu đồng - riêng tháng 6/2007 thu 72,3 triệu đồng. Tính ra trung bình cả tỉnh doanh thu 983 ngàn đồng/điểm. Theo ông Nguyễn Văn Kiều - Phó Giám đốc Bưu điện tỉnh Bình Định: Tính hiệu quả kinh tế thì không đạt yêu cầu. Căn bản là hiệu quả xã hội, góp phần nâng cao trình độ dân trí, thúc đẩy khu vực nông thôn phát triển. Tuy vậy nông dân vào mạng internet còn rất ít, chỉ những người sản xuất giỏi, quy mô lớn, muốn đổi mới sản xuất, muốn tìm thị trường mua, bán… mới quan tâm đến thông tin trên mạng.
BĐVHX lấy hiệu quả dịch vụ kinh doanh khác: chuyển phát thư báo, điện thoại, chuyển tiền... hay nơi internet có lãi để bù vào nơi lỗ.
Đưa internet về nông thôn:
Ông Nguyễn Văn Kiều: Từ nay đến 2010 Bưu điện tỉnh có kế hoạch trang bị ít nhất 5 máy tính nối mạng/điểm. 100% điểm BĐVHX có kết nối internet. Hiện cả tỉnh có 7/10 bưu điện huyện có cán bộ chuyên trách về CNTT có trình độ từ kỹ thuật viên đến cử nhân CNTT. Sẽ đào tạo bổ sung cán bộ CNTT cho bưu điện còn lại. Đây là đội ngũ, ngoài phục vụ các bưu cục trong huyện còn phục vụ các BĐVHX. Bởi lẽ trình độ nhân viên phụ trách BĐVHX phần lớn mới qua tập huấn nghiệp vụ bưu điện, về mạng máy tính ngắn ngày, nên không đủ trình độ quản trị một điểm internet. Khi có sự cố - dù nhỏ cũng cần đến chuyên trách mạng bưu điện huyện.
Đưa internet về nông thôn đầu tiên qua điểm BĐVHX có lẽ thuận lợi, hiệu quả nhất; sau đó khuyến khích tư nhân đầu tư để đa dạng hóa dịch vụ mạng có tính cạnh tranh ở vùng nông thôn để phục vụ nhu cầu cần thiết cho đối tượng trước mắt là học sinh, sinh viên. Nhưng khó khăn nhất là đường truyền, nếu kết nối gián tiếp (đường truyền số) thì không thể phát triển internet vùng sâu vùng xa.
Mới đây Bộ Bưu chính - Viễn Thông (nay là Bộ Thông tin - Truyền thông) dự tính đầu tư 2 tỷ USD hiện đại hóa mạng viễn thông, phủ sóng đến 100% xã nông thôn. Bên cạnh đó có Quỹ dịch vụ viễn thông quốc gia. Phải chăng đây là cơ hội để phát triển mạng internet ở nông thôn?
Hiệp hội bưu chính Đức kêu gọi thúc đẩy cạnh tranh
Các công ty bưu chính Đức đã kêu gọi chính phủ liên bang đưa ra một đạo luật bưu chính mới vào cuối năm nay để khuấy động sự cạnh tranh trong ngành bưu chính.
Cuộc kêu gọi này xuất hiện sau khi cơ quan chống độc quyền của Đức cho rằng chính phủ cần nỗ lực hơn nữa nhằm thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường bưu chính. Cơ quan này cho rằng điều này là cần thiết vì thị phần của công ty Bưu chính Đức (Deutsche Post) vẫn còn chiếm đến hơn 90%.
BdKEP, một hiệp hội thương mại đại diện cho các công ty chuyển phát nhanh, chuyển phát bưu kiện và thư, hiện đang kêu gọi sự hỗ trợ từ các thành viên của Quốc hội Cộng hòa Liên bang Đức, để đề xuất sửa đổi luật bưu chính.
Tuần trước, hiệp hội này đã gửi một bức thư ngỏ cho các thành viên của Quốc hội Đức, trong đó bày tỏ rằng từ khi bắt đầu mở cửa thị trường bưu chính năm 1998, và tự do hóa năm 2008, thị trường bưu chính vẫn chưa có được sự cạnh tranh hiệu quả. Những quy định vẫn chưa thúc đẩy được sự cạnh tranh trong ngành bưu chính Đức khi gần 500 đối thủ của công ty bưu chính Deutsche Post mới chỉ có thể chiếm được 10% thị phần.
Chính sách đúng hướng, tỷ giá ổn định
Tỷ giá VND/USD đã ổn định trong 7 tháng qua và có khả năng sẽ tiếp tục ổn định trong thời gian tới. Đây là cơ sở làm tăng lòng tin vào tiền đồng.
Sự ổn định của tỷ giá VND/USD trước hết được thể hiện ở tốc độ tăng, giảm giá USD trong 7 tháng đầu năm 2012.
Một biểu hiện khác là tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do nếu trong những năm trước cao hơn tỷ giá niêm yết trong các ngân hàng thương mại và thường kéo tỷ giá trong các ngân hàng thương mại lên theo, gây nên sự nóng sốt trên thị trường ngoại hối của Việt Nam, góp phần làm giảm sút lòng tin vào đồng tiền quốc gia, thì nay chênh lệch không lớn, thậm chí trong một số thời điểm, chênh lệch này còn mang dấu âm (tức là tỷ giá trên thị trường tự do còn thấp hơn trên thị trường chính thức).
Một biểu hiện khác của sự ổn định tỷ giá là tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường của các ngân hàng thương mại không vượt quá biên độ cho phép (trong 7 tháng qua chỉ có 3 lần giao dịch kịch trần, nhưng chỉ diễn ra trong vài ba ngày là 19- 20/3, 5- 6/6 và 24/7).
Sự ổn định của tỷ giá do nhiều nguyên nhân, trong đó, quan trọng nhất là do nhập siêu giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2011 cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu (theo Tổng cục Hải quan, từ đầu năm đến ngày 15/7 chỉ ở mức 423 triệu USD). Lượng vốn FDI thực hiện chỉ giảm rất nhẹ (0,8%); lượng vốn ODA giải ngân lại tăng khá; lượng ngoại hối vào cùng với khách quốc tế đến Việt Nam tăng cao. Tình trạng mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do để nhập lậu vàng gần như không còn, nên sức ép tỷ giá từ tình trạng trên bị triệt tiêu… Cán cân tổng thể tiếp tục đạt trạng thái thặng dư.
Bên cạnh đó, chính sách lãi suất đã hỗ trợ cho giá trị của đồng nội tệ, góp phần làm ổn định tỷ giá. Trong khi lãi suất gửi đồng nội tệ trong nhiều tháng liền ở mức 2 chữ số (gần đây mới khống chế ở mức 9%/năm đối với kỳ hạn dưới 1 năm, còn kỳ hạn từ 1 năm trở lên vẫn ở mức 11- 12%/năm), thì lãi suất gửi USD đối với dân cư được áp trần ở mức 2%/năm, thấp chỉ bằng 1/5- 1/6 lãi suất gửi bằng đồng nội tệ. Tăng trưởng số dư tiền gửi dân cư 31/7/2012 so với cuối năm trước bằng nội tệ lên đến 12%, trong khi bằng ngoại tệ bị giảm hơn 10%. Điều đó lý giải có một lượng ngoại tệ đáng kể đã được bán ra cho ngân hàng chuyển sang đồng nội tệ và gửi tại đây.
Có nguyên nhân nữa rất quan trọng là yếu tố tâm lý xét dưới hai góc độ. Góc độ thứ nhất là lạm phát thời gian qua đã chậm lại nhanh và giảm liền trong 2 tháng qua, góp phần ổn định lòng tin vào đồng nội tệ, hạn chế việc trú ẩn vào ngoại tệ để bảo tồn giá trị khi lạm phát cao. Góc độ thứ hai là tâm lý đầu cơ ngoại tệ cũng giảm mạnh. Bởi muốn đầu cơ thì phải có “sóng” lớn, trong khi thị trường ngoại tệ thời gian qua gần như không có tình trạng này.
Sự ổn định của của tỷ giá VND/USD đã tác động đến nhiều mặt kinh tế- xã hội. Trước hết là ổn định tâm lý, hạn chế tâm lý kỳ vọng lạm phát, góp phần kiềm chế lạm phát. Tỷ giá ổn định, tính chung 7 tháng còn giảm đã góp phần loại trừ nhập khẩu lạm phát. Diễn biến của tỷ giá đã góp phần giảm bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ, vừa khai thác được nguồn ngoại tệ trong dân cư, vừa hạn chế tình trạng đô la hóa vốn ở mức cao của Việt Nam. Đó cũng là điều kiện đưa mức dự trữ ngoại hối đạt được 10 tuần nhập khẩu và khả năng đạt 12 tuần nhập khẩu, đạt được ranh giới an toàn theo thông lệ quốc tế. Lòng tin vào đồng nội tệ được củng cố…