Quy chuẩn quốc gia về dịch vụ bưu chính công ích về tới vùng dân tộc tại Vĩnh Phúc


Cột sóng được đặt tại một thị trấn. Ảnh minh họa: KA

Theo thống kê của Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc, hạ tầng mạng lưới, dịch vụ bưu chính trên địa bàn tỉnh có 12 doanh nghiệp hoạt động bưu chính. Mạng lưới này phục vụ ổn định, rộng khắp toàn tỉnh trong đó có 40 xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc và miền núi với tổng số 144 bưu cục, điểm phục vụ, bán kính phục vụ bình quân 1,7km/điểm, số dân phục vụ bình quân khoảng 7.000 người/điểm, đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dịch vụ bưu chính công ích. Địa phương cũng tăng cường sử dụng dịch vụ bưu chính nhằm bảo đảm an toàn thông tin, khảo sát, điều tra sản lượng và giá cước bình quân đối với dịch vụ bưu chính công ích và dịch vụ công ích trong hoạt động phát hành báo chí trên địa bàn tỉnh...

Đặc biệt, về hạ tầng mạng lưới, dịch vụ viễn thông, hạ tầng truyền dẫn trên địa bàn tinh đã được cáp quang hóa 100%, tạo ra tính tuyệt đối về băng thông, tốc độ, chất lượng. Doanh nghiệp đã phát triển hạ tầng mạng lưới đến các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi vùng khó khăn của tỉnh đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân.

Chưa kể, cáp quang đã được kết nối đến tất cả các xã, phường, thị trấn, thôn, làng, bản trên địa bàn tỉnh. Tính đến ngày 10/3/2021, toàn tỉnh có 2.675 trạm thu phát sóng thông tin di động, phủ sóng di động 3G, 4G toàn tỉnh đạt 100%, đã triển khai lắp đặt thử nghiệm 02 trạm 5G của Viettel, phát sóng 5G vào tháng 3/2021; 1.181.625 thuê bao điện thoại di động, trong đó 908,460 thuê bao sử dụng điện thoại thông minh; 198.446 thuê bao Internet băng rộng cố định và 760.565 thuê bao Internet băng rộng di động, tỷ lệ hộ gia đình có Internet băng rộng cố định là 64,5 %.

Một điểm đáng chú ý khác, hạ tầng mạng truyền số liệu chuyên dùng đã kết nối đến 169 đơn vị, địa phương, đồng bộ đến cấp xã (trong đó có 40 xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi). Hạ tầng cáp quang được doanh nghiệp triển khai đến 136 xã, phường, thị trấn (gồm có 40 xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi ) đã giúp trang bị và nâng cấp nền tảng công nghệ thông tin phục vụ công tác nói chung và công tác dân tộc nói riêng.

Ngoài những kết quả nổi bật nói trên về ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, tỉnh Vĩnh Phúc cũng triển khai tốt các công tác: đào tạo, tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức về việc ứng dụng công nghệ thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số và xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, văn bản chỉ đạo để thực hiện Đề án theo Quyết định 414/QĐ của Thủ tướng Chính phủ...

Bên cạnh những mặt làm được, tỉnh Vĩnh Phúc cũng thẳng thắn nhìn nhận những khó khăn, vướng mắc gặp phải như: Trình độ, năng lực, kỹ năng về công nghệ thông tin và truyền thông của một bộ phận cán bộ làm công tác dân tộc cấp huyện, xã và đặc biệt là người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn hạn chế; việc xây dựng, phát triển các ứng dụng hỗ trợ cảnh báo thiên tai, thảm họa, cứu hộ, cứu nạn vùng đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn; chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ lao động, sản xuất.

Vì vậy, tỉnh trung du miền Bắc Việt Nam đề nghị Ủy ban Dân tộc có văn bản hướng dẫn các địa phương tổ chức triển khai xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về công tác dân tộc phù hợp, đồng bộ, thống nhất. Đồng thời, thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ theo dõi tham mưu triển khai thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin của Ban Dân tộc các tỉnh, thành phố.

Như vậy, với việc được đầu tư khá đồng bộ hạ tầng về viễn thông và các dịch vụ công ích, vùng dân tộc thiểu số tại Vĩnh Phúc đã từng bước được thay đổi được diện mạo nông thôn vùng khó khăn. Đồng thời, bà con thôn bản chính là đối tượng được hưởng lợi từ việc đầu tư hạ tầng và phát triển các dịch vụ này, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.