Năm Giáp Ngọ nói chuyện về... Ngựa

Nguồn gốc và lịch sử phát triển
Theo phân loại động vật, họ Ngựa (Eqdae) thuộc bộ Ngón lẻ (perrisodactyla), xuất hiện cách đây chừng 55 - 60 triệu năm. Thủy tổ sớm nhất của chúng là loài động vật được gọi là Eohippus, hoặc tên khoa học là Hyracotherium. Ngựa thuở sơ khai có tầm vóc chỉ nhỏ bằng con cáo, sống trong các vùng rừng Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á, ăn lá cây bụi, chân trước có bốn ngón và ba ngón ở chân sau.
Qua nhiều triệu năm, các thế hệ của loài động vật nhỏ bé này mới tiến hóa thành giống ăn cỏ lớn hơn, có ba ngón và sau đó chỉ còn một ngón duy nhất ở tất cả các chân. Trước tiên, giống ngựa ăn lá cây, mang tên Meso-hippus rồi đến Parahippus có răng nhai với thân răng thấp. Cách đây khoảng 23 - 25 triệu năm, đồng cỏ bắt đầu thay thế các vùng rừng ở Bắc Mỹ. Để thích nghi với môi trường mới, chân ngựa tiến hóa dài hơn nên có thể di chuyển nhanh khắp các vùng rộng lớn kiếm tìm cỏ và chạy trốn khi bị mãnh thú săn đuổi, đồng thời thân răng nhai cao hơn để phù hợp với thức ăn là loại cỏ thô ráp. Giống ngựa ăn cỏ sớm nhất là Merychippus, rồi dần dần được thay thế bởi giống Plio-hippus là loại ngựa một ngón đầu tiên. Giống ngựa này sinh ra Equus từ cách đây khoảng hai triệu năm.
Giống ngựa Equus bao gồm nhiều loài, nhưng chỉ có hai loài Przewalski và Tarpan là sống sót được qua thời kỳ Trái đất bị băng phủ (thời kỳ băng hà, cách đây chừng 11.000 - 15.000 năm). Ngựa Plzewalski có nguồn gốc ở các vùng thảo nguyên Mông Cổ, hiện tại chỉ còn vài chục con sống hoang dã tại vùng núi Tachin Shara Nuru và được gây nuôi, bảo tồn ở một số vườn thú lớn. Còn ngựa Tarpan nguồn gốc ở miền Nam nước Nga, những thế kỷ trước chúng sống khá nhiều ở Đông Âu nhưng hiện tại không còn nữa do bị săn bắt và con cuối cùng bị giết chết năm 1851 tại một vùng núi của Ucraina. Hai loài ngựa đó được coi là thủy tổ gần nhất của các loài ngựa trên thế giới ngày nay.
Đặc điểm sinh học và đời sống
Ngựa có thể chạy với tốc độ 25 - 40 km/giờ trong nhiều giờ: ở cự ly ngắn tốc độ chạy của chúng đạt tới 65 -70 km/giờ.
Ngựa giao phối vào mùa xuân và thường đẻ một con (hiếm khi sinh đôi) sau khi mang thai khoảng 335 - 340 ngày (riêng ngựa vằn khoảng 370 - 375 ngày). Sau khi đẻ chừng một giờ, ngựa con có thể đi lại được và nó ăn thêm cỏ chỉ sau vài tuần dù ngựa mẹ thường cho con bú tới một năm. Được 2,5 - 4,5 tuổi, ngựa con hoàn toàn trưởng thành, có khả năng rời đàn, lập ra nhóm mới và đạt tầm vóc tối đa. Trong họ hàng nhà ngựa, tầm vóc các loại rất khác nhau: lớn nhất là loài Shire ở Anh, trung bình cao (tính tới đỉnh vai) 170 - 190 cm, nặng 700 - 1.100 kg; còn nhỏ nhất là loài Falabella ở Achentina chỉ cao 45 - 80 cm. Tuổi thọ của các loài ngựa cũng rất khác nhau, nói chung khoảng 18 - 40 năm, con sống lâu nhất được 60 năm.
Giá trị của ngựa đối với con người
Do ưu điểm nhanh, khỏe, thông minh, dễ dạy bảo, giỏi chịu đựng, ngựa hiện nay vẫn được sử dụng ở nhiều lĩnh vực. Cùng với chó, mèo, ngựa rất gần gũi, gắn bó với người. Chính vì vậy, người ta quan tâm và trọng dụng ngựa. Các trại nuôi ngựa, chương trình nghiên cứu ngựa, dự án lai tạo ngựa, hội bảo vệ ngựa, quỹ cứu trợ ngựa hoang... có ở nhiều nơi trên thế giới.*