Phê duyệt Điều lệ Hội Chiến sỹ thành cổ Quảng Trị năm 1972

Điều lệ căn cứ Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động quản lý Hội; Nghị định số 33/2012/NĐ-CP, ngày 13/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP; trên cơ sở xem xét đề nghị của Chủ tịch Hội Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 và Vụ Tổ chức phi Chính phủ (Bộ Nội vụ).
Hội Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 có tên tiếng Việt, tên tiếng Anh, có biểu tượng riêng (logo) được đăng ký bản quyền theo quy định của pháp luật.
Hội Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 (gọi tắt là Hội) là tổ chức xã hội tự nguyện, tập hợp công dân Việt Nam là cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang cách mạng đã trực tiếp chiến đấu và tham gia, phục vụ chiến đấu trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 đang sống và làm việc trên địa bàn cả nước.
Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết hội viên nhằm động viên hội viên hỗ trợ nhau trong cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, tham gia hoạt động nghĩa tình đồng đội, tri ân liệt sĩ; tham gia tìm kiếm hài cốt liệt sĩ hy sinh trong chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 1972, khơi dậy phát huy truyền thống cách mạng, nâng cao tinh thần yêu nước, góp phần vào xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Hội, quy chế quy định: Tự nguyện, tự quản; Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch; Tự bảo đảm kinh phí hoạt động; Không vì mục đích lợi nhuận; Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Hội; Hoạt động trên cơ sở thảo luận dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách và biểu quyết theo đa số.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Hội:
Đại diện cho Hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội theo quy định của pháp luật; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Hội theo quy định của pháp luật. Tham gia các hoạt động tuyên truyền nhằm khơi dậy, phát huy truyền thống anh hùng cách mạng; tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan triển khai các hoạt động giữ gìn, phát huy, khơi dậy phẩm chất anh hùng cách mạng; đề xuất, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về việc giữ gìn, phát huy truyền thống anh hùng cách mạng theo quy định của pháp luật. Tổ chức các hoạt động chia sẻ, nghĩa tình, động viên, giúp đỡ hội viên và đồng đội, hỗ trợ nhau trong cuộc sống, xóa đói giảm nghèo. Tham gia hoạt động tri ân liệt sĩ, tìm kiếm hài cốt liệt sĩ hy sinh trong chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 theo quy định của pháp luật. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của Hội. Thành lập pháp nhân thuộc Hội theo quy định của pháp luật. Được gây quỹ Hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ theo quy định của pháp luật trên cơ sở tự trang trải kinh phí hoạt động. Được nhận từ các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ của Hội: Tổ chức, hoạt động theo Điều lệ Hội đã được phê duyệt. Không được lợi dụng hoạt động của Hội để làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tập hợp, đoàn kết hội viên; tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của Hội; thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, Điều lệ của Hội góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên, hướng dẫn hội viên tuân thủ pháp luật, chế độ, chính sách của Nhà nước và Điều lệ, quy chế, quy định của Hội. Cập nhật, tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước phổ biến tới hội viên; đề xuất, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết chế độ, chính sách cho hội viên theo quy định của pháp luật. Đại diện hội viên tham gia, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về các chủ trương, chính sách liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật. Xây dựng và ban hành quy tắc đạo đức trong hoạt động của Hội. Quản lý sử dụng kinh phí của Hội theo quy định của pháp luật.
Quyền và nhiệm vụ của Hội viên:
Được Hội bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Được Hội cung cấp thông tin liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội, tham gia các hoạt động do Hội tổ chức; được giúp đỡ, tạo điều kiện theo khả năng của Hội trong công tác liên quan tới nhiệm vụ, quyền hạn của Hội. Được thảo luận, quyết định các chủ trương công tác của Hội theo quy định của Hội; được kiến nghị, đề xuất ý kiến với Hội, cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực của Hội. Được dự Đại hội (nếu là đại biểu), ứng cử, đề cử, bầu cử các cơ quan, các chức danh lãnh đạo và Ban Kiểm tra Hội theo quy định của Hội và quy định của pháp luật. Được giới thiệu hội viên mới. Được Hội khen thưởng theo quy định của Hội và quy định của pháp luật. Được cấp thẻ hội viên. Được ra khỏi Hội khi xét thất không thể tiếp tục là hội viên.
Nhiệm vụ của Hội viên: nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành Điều lệ, quy định của Hội. Tham gia các hoạt động và sinh hoạt của Hội; đoàn kết, hợp tác với các hội viên khác để xây dựng Hội phát triển vững mạnh. Bảo vệ uy tín của Hội, không được nhân danh Hội trong quan hệ giai dịch, trừ khi được lãnh đạo Hội phân công bằng văn bản. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của Hội. Đóng hội phí đầy đủ và đúng hạn theo quy định của Hội.
Cơ cấu tổ chức của Hội:
Quy chế quy định, bao gồm: Đại hội đại biểu. Ban Chấp hành Hội. Ban Thường vụ Hội. Ban Kiểm tra Hội. Văn phòng, các ban chuyên môn. Tổ chức thuộc Hội có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật. Ở tổ chức, cơ sở có từ 20 Hội viên trở lên có thể thành lập chi hội thuộc Hội. Chi hội do Hội thành lập không có tư cách pháp nhân, con dấu.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Đại hội Đại biểu (Đại hội). Đại hội nhiệm kỳ được tổ chức 5 năm một lần do Ban Chấp hành triệu tập. Đại hội bất thường được triệu tập khi ít nhất 2/3 tổng số ủy viên Ban Chấp hành yêu cầu hoặc có trên ½ tổng số hội viên đề nghị. Thành phần, số lượng đại biểu dự Đại hội do Ban Chấp hành Hội quyết định.
Ban Chấp hành do Đại hội bầu ra trong số các hội viên chính thức của Hội. Số lượng, cơ cấu, tiêu chuẩn ủy viên Ban Chấp hành do Đại hội quyết định. Nhiệm kỳ của Ban Chấp hành cùng với nhiệm kỳ Đại hội.
Ban Thường vụ Hội do Ban Chấp hành bầu trong số các ủy viên Ban Chấp hành; Ban Thường vụ gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các ủy viên. Số lượng, cơ cấu, tiêu chuẩn ủy viên Ban Thường vụ do Ban Chấp hành quyết định. Nhiệm kỳ của Ban Thường vụ cùng với nhiệm kỳ của Ban Chấp hành.
Chủ tịch Hội là đại diện pháp nhân của Hội trước pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của Hội. Chủ tịch Hội do Ban Chấp hành bầu trong số các Ủy viên Ban Chấp hành Hội. Tiêu chuẩn Chủ tịch Hội do Ban Chấp hành Hội quy định phù hợp với Điều lệ Hội và quy định của pháp luật.
Phó Chủ tịch Hội, trong đó có Phó Chủ tịch Thường trực do Ban Chấp hành bầu trong số các ủy viên Ban Chấp hành Hội. Tiêu chuẩn, số lượng Phó Chủ tịch Hội do Ban Chấp hành Hội quy định phù hợp với Điều lệ Hội và quy định của pháp luật.
Việc giải thể Hội:
Hội giải thể trong trường hợp trong các trường hợp: Tự giải thể theo đề nghị của ½ tổng số hội viên chính thức thông qua tại Đại hội; Bị giải thể theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi Hội vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc Hội không hoạt động liên tục ít nhất 12 tháng và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ.
Chỉ có Đại hội Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 mới có quyền sửa đổi, bổ sung Điều lệ này. Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu chính thức có mặt tại Đại hội biểu quyết thông qua.
Điều lệ Hội Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 đã được Đại hội thành lập Hội chiến sỹ Thành cổ Quảng trị năm 1972 thông qua ngày 19/7/2013 và có hiệu lực thi hành theo quyết định phê duyệt Quyết định phê duyệt của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Thanh Thảo