Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 01/11/2013

Chi trả lương hưu qua Bưu điện - Những góc nhìn
Được triển khai thí điểm tháng 7 năm 2013 tại địa bàn huyện Phù Ninh và TX Phú Thọ, từ tháng 8 đến nay, công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng qua Bưu điện đã được thực hiện rộng rãi tại tất cả các huyện, thành, thị trong tỉnh và thu được những kết quả tích cực. “Vượt qua những khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu, chúng tôi đang nỗ lực, cố gắng để khắc phục những bất cập, hạn chế nhằm đem đến một dịch vụ công cho người dân với nhiều tiện ích”- ông Nguyễn Thanh Hải- Giám đốc Bưu điện tỉnh Phú Thọ khẳng định.

Nhờ bố trí khoa học, các điểm chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH qua Bưu điện ngày càng giảm tải.
- Một điểm chi trả thuộc địa bàn phường Tiên Cát- TP Việt Trì.
- Một điểm chi trả thuộc địa bàn phường Tiên Cát- TP Việt Trì.
Với mục tiêu chi trả kịp thời, chính xác
Theo ông Hải, vì đây là một việc làm mới, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo chặt chẽ để không gây xáo trộn khi thay đổi hình thức chi trả nên ngoài các văn bản của Trung ương, Bưu điện tỉnh và BHXH tỉnh đã tích cực, chủ động tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai đồng bộ, thống nhất; UBND các huyện, thành, thị cũng ra văn bản chỉ đạo các ngành chức năng, các xã, phường, thị trấn thực hiện kịp thời, có hiệu quả. Bưu điện tỉnh còn phối hợp chặt chẽ với BHXH, Ngân hàng NN&PTNT đảm bảo nguồn chi trả; phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giúp người dân hiểu, ủng hộ, hỗ trợ cho việc chi trả diễn ra thuận lợi.
Bà Nguyễn Thị Hải Miên- Trưởng phòng kỹ thuật nghiệp vụ Bưu điện tỉnh cho biết: Bên cạnh việc tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chi trả trong toàn hệ thống, bố trí, phân công cụ thể nguồn nhân lực; trang bị các công cụ, phương tiện cần thiết cho các điểm chi trả; sửa chữa khang trang một số điểm giao dịch để phục vụ cho công tác chi trả, Bưu điện tỉnh cũng đã phối hợp với cơ quan công an để làm tốt công tác đảm bảo ANTT, bảo vệ an toàn tiền mặt; ký kết hợp đồng với các nhân viên chi trả cũ của BHXH để kế thừa công tác chi trả; đặc biệt là làm việc với các Trưởng khu dân cư, Tổ trưởng dân phố, tổ hưu để tranh thủ kinh nghiệm, sự giúp đỡ, thông báo đến người dân thời gian, địa điểm chi trả cụ thể nhằm tạo sự thuận tiện cho người đến nhận lương hưu...
Ở thời điểm tháng 10 năm 2013, toàn tỉnh có 76.918 người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH với tổng số tiền phải chi trả là hơn 210 tỷ đồng. Bưu điện tỉnh đã thực hiện chi trả cho 76.788 người hưởng với số tiền trên 209 tỷ 605 triệu đồng, đạt tỷ lệ chi trả cả về số người hưởng và số tiền 99,8%. Có được kết quả này, Bưu điện tỉnh đã phải huy động 468 lượt nhân viên chi trả (trong đó có 179 nhân viên Bưu điện, 289 nhân viên Điểm bưu điện văn hoá xã và lao động hợp đồng), mở 596 điểm chi trả tại 277 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Đây là sự cố gắng không nhỏ để công tác chi trả được thực hiện kịp thời, nhanh gọn và chính xác của Bưu điện tỉnh. Bà Nguyễn Thị Phương- Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm kinh doanh Việt Trì cho biết: Địa bàn thành phố có tới 149 điểm chi trả, huy động 81 nhân viên tham gia chi trả cho 24.376 người hưởng với số tiền chi trả gần 77 tỷ đồng. Đối với huyện miền núi vùng cao Tân Sơn, tuy chỉ phải đảm trách việc chi trả hơn 3,3 tỷ đồng cho 1.388 người hưởng hàng tháng- ít nhất so với các huyện, thị khác trong tỉnh nhưng Bưu điện huyện vẫn bố trí nhân lực một cách khoa học, hợp lý ở 25 điểm chi trả để đảm bảo cho việc chi trả an toàn, thuận tiện, hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót có thể xảy ra.
Những bất cập cần khắc phục
Nỗ lực là vậy, nhưng qua tìm hiểu thực tế của chúng tôi, thời gian đầu mới triển khai thực hiện, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH qua Bưu điện vẫn bộc lộ những bất cập, hạn chế.
Đó là số lượng người hưởng đông, trong khi số điểm chi trả, nhân viên chi trả còn ít, còn bỡ ngỡ khi thao tác nghiệp vụ; thời gian chi trả lại ấn định theo ngày, giờ nhất định nên dẫn đến tình trạng ùn tắc cục bộ, chen chúc, tạo tâm lý không thoải mái ở một số người dân; chưa kể đến một bộ phận người hưởng chưa quen với thủ tục uỷ quyền nếu không trực tiếp đi nhận tiền (nhất là người hưởng trong cùng một gia đình), việc thu phí đóng dấu xác nhận uỷ quyền chưa thống nhất, tiền lĩnh mệnh giá còn nhỏ lẻ, đôi khi là tiền cũ rách...
Đơn cử như tại phường Nông Trang- TP Việt Trì có 3.565 người hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH với số tiền chi trả hàng tháng lên đến trên 8 tỷ 530 triệu đồng nhưng việc chi trả chỉ được thực hiện ở 15 điểm và ấn định vào chiều ngày mùng 8, sau ngày này, nếu ai không đến lấy thì sẽ đến Bưu cục Nông Trang để nhận tiền trong vòng 5 ngày, sau đó sẽ chuyển về BHXH tỉnh cho tháng sau. Có mặt trong một buổi nhận lương hưu, chúng tôi ghi nhận được ý kiến của bà Ma Thị Mỹ- Cán bộ hưu trí khu 2B, phường Nông Trang: “Đi nhận lương hưu phải đúng giờ vì chỉ có mấy tiếng đồng hồ để nhận thôi. Do người đông nên vẫn còn chen nhau, các cụ già nhiều khi chưa được ưu tiên. Đường xa, trời nắng nên người già chúng tôi ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sức khoẻ”.
Mặc dù những bất cập kể trên chỉ mang tính cục bộ và xảy ra trong những tháng đầu nhưng đã đặt ra cho ngành Bưu điện một bài toán về nâng cao tiện ích cho người thụ hưởng dịch vụ này. Với phương châm cầu thị, lắng nghe dư luận, phấn đấu mang lại sự hài lòng nhất cho các đối tượng được hưởng, Bưu điện tỉnh đã kịp thời tăng cường các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế không đáng có.
Trước hết, đó là sự đổi mới trong phương thức chỉ đạo, điều hành. Hàng tháng, vào các ngày chi trả, lãnh đạo Bưu điện tỉnh và các phòng chuyên môn trực tiếp xuống các điểm chi trả để nắm bắt tình hình, kiểm tra, đôn đốc, đưa ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời; họp với lãnh đạo Bưu điện các huyện, thành, thị để rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó tăng thêm các điểm chi trả, số người, số bàn chi trả và các trang thiết bị để giảm tải cho một điểm; chia khung giờ thích hợp và bố trí trực thêm giờ để phục vụ; cải tiến phương pháp phục vụ như chia sẵn lượng tiền với mệnh giá khác nhau để người đến trước hoặc đến sau vẫn nhận được loại tiền theo mong muốn, phối hợp cùng các Trưởng KDC để xác nhận nhân thân người đi lĩnh lương thay vì các thủ tục kiểm tra giấy tờ rườm rà trước đó; tạo điều kiện để người hưởng có quyền thay đổi địa điểm nhận tiền; tổ chức chi trả tất cả các ngày trong tuần, kể cả thứ bảy và chủ nhật. Đến kỳ chi trả tháng 10, những bất cập nêu trên đã cơ bản được Bưu điện tỉnh khắc phục.
Cùng với tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chi trả, Bưu điện tỉnh chú trọng đổi mới, nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ của toàn thể CBCNV; cử nhân viên đem tiền đến tận nhà để phát cho những trường hợp bị ốm đau, già yếu, đối tượng chính sách hoặc vì lý do nào đó không đến nhận lương hưu tại các điểm chi trả được.
Nhìn một cách đa chiều, tổng thể, cùng với các dịch vụ chuyển phát chứng minh thư, hộ chiếu; công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH đang tạo ra bước đột phá mới cho Bưu điện tỉnh trong nỗ lực cung ứng cho người dân một loại hình dịch vụ hành chính công ngày càng tiện ích; được lãnh đạo tỉnh và dư luận đánh giá cao tạo đà để Bưu điện Phú Thọ thực hiện các dịch vụ công phục vụ nhân dân trong thời gian tới.
Bà Nguyễn Thị Hải Miên- Trưởng phòng kỹ thuật nghiệp vụ Bưu điện tỉnh cho biết: Bên cạnh việc tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chi trả trong toàn hệ thống, bố trí, phân công cụ thể nguồn nhân lực; trang bị các công cụ, phương tiện cần thiết cho các điểm chi trả; sửa chữa khang trang một số điểm giao dịch để phục vụ cho công tác chi trả, Bưu điện tỉnh cũng đã phối hợp với cơ quan công an để làm tốt công tác đảm bảo ANTT, bảo vệ an toàn tiền mặt; ký kết hợp đồng với các nhân viên chi trả cũ của BHXH để kế thừa công tác chi trả; đặc biệt là làm việc với các Trưởng khu dân cư, Tổ trưởng dân phố, tổ hưu để tranh thủ kinh nghiệm, sự giúp đỡ, thông báo đến người dân thời gian, địa điểm chi trả cụ thể nhằm tạo sự thuận tiện cho người đến nhận lương hưu...
Ở thời điểm tháng 10 năm 2013, toàn tỉnh có 76.918 người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH với tổng số tiền phải chi trả là hơn 210 tỷ đồng. Bưu điện tỉnh đã thực hiện chi trả cho 76.788 người hưởng với số tiền trên 209 tỷ 605 triệu đồng, đạt tỷ lệ chi trả cả về số người hưởng và số tiền 99,8%. Có được kết quả này, Bưu điện tỉnh đã phải huy động 468 lượt nhân viên chi trả (trong đó có 179 nhân viên Bưu điện, 289 nhân viên Điểm bưu điện văn hoá xã và lao động hợp đồng), mở 596 điểm chi trả tại 277 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Đây là sự cố gắng không nhỏ để công tác chi trả được thực hiện kịp thời, nhanh gọn và chính xác của Bưu điện tỉnh. Bà Nguyễn Thị Phương- Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm kinh doanh Việt Trì cho biết: Địa bàn thành phố có tới 149 điểm chi trả, huy động 81 nhân viên tham gia chi trả cho 24.376 người hưởng với số tiền chi trả gần 77 tỷ đồng. Đối với huyện miền núi vùng cao Tân Sơn, tuy chỉ phải đảm trách việc chi trả hơn 3,3 tỷ đồng cho 1.388 người hưởng hàng tháng- ít nhất so với các huyện, thị khác trong tỉnh nhưng Bưu điện huyện vẫn bố trí nhân lực một cách khoa học, hợp lý ở 25 điểm chi trả để đảm bảo cho việc chi trả an toàn, thuận tiện, hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót có thể xảy ra.
Những bất cập cần khắc phục
Nỗ lực là vậy, nhưng qua tìm hiểu thực tế của chúng tôi, thời gian đầu mới triển khai thực hiện, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH qua Bưu điện vẫn bộc lộ những bất cập, hạn chế.
Đó là số lượng người hưởng đông, trong khi số điểm chi trả, nhân viên chi trả còn ít, còn bỡ ngỡ khi thao tác nghiệp vụ; thời gian chi trả lại ấn định theo ngày, giờ nhất định nên dẫn đến tình trạng ùn tắc cục bộ, chen chúc, tạo tâm lý không thoải mái ở một số người dân; chưa kể đến một bộ phận người hưởng chưa quen với thủ tục uỷ quyền nếu không trực tiếp đi nhận tiền (nhất là người hưởng trong cùng một gia đình), việc thu phí đóng dấu xác nhận uỷ quyền chưa thống nhất, tiền lĩnh mệnh giá còn nhỏ lẻ, đôi khi là tiền cũ rách...
Đơn cử như tại phường Nông Trang- TP Việt Trì có 3.565 người hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH với số tiền chi trả hàng tháng lên đến trên 8 tỷ 530 triệu đồng nhưng việc chi trả chỉ được thực hiện ở 15 điểm và ấn định vào chiều ngày mùng 8, sau ngày này, nếu ai không đến lấy thì sẽ đến Bưu cục Nông Trang để nhận tiền trong vòng 5 ngày, sau đó sẽ chuyển về BHXH tỉnh cho tháng sau. Có mặt trong một buổi nhận lương hưu, chúng tôi ghi nhận được ý kiến của bà Ma Thị Mỹ- Cán bộ hưu trí khu 2B, phường Nông Trang: “Đi nhận lương hưu phải đúng giờ vì chỉ có mấy tiếng đồng hồ để nhận thôi. Do người đông nên vẫn còn chen nhau, các cụ già nhiều khi chưa được ưu tiên. Đường xa, trời nắng nên người già chúng tôi ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sức khoẻ”.
Mặc dù những bất cập kể trên chỉ mang tính cục bộ và xảy ra trong những tháng đầu nhưng đã đặt ra cho ngành Bưu điện một bài toán về nâng cao tiện ích cho người thụ hưởng dịch vụ này. Với phương châm cầu thị, lắng nghe dư luận, phấn đấu mang lại sự hài lòng nhất cho các đối tượng được hưởng, Bưu điện tỉnh đã kịp thời tăng cường các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế không đáng có.
Trước hết, đó là sự đổi mới trong phương thức chỉ đạo, điều hành. Hàng tháng, vào các ngày chi trả, lãnh đạo Bưu điện tỉnh và các phòng chuyên môn trực tiếp xuống các điểm chi trả để nắm bắt tình hình, kiểm tra, đôn đốc, đưa ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời; họp với lãnh đạo Bưu điện các huyện, thành, thị để rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó tăng thêm các điểm chi trả, số người, số bàn chi trả và các trang thiết bị để giảm tải cho một điểm; chia khung giờ thích hợp và bố trí trực thêm giờ để phục vụ; cải tiến phương pháp phục vụ như chia sẵn lượng tiền với mệnh giá khác nhau để người đến trước hoặc đến sau vẫn nhận được loại tiền theo mong muốn, phối hợp cùng các Trưởng KDC để xác nhận nhân thân người đi lĩnh lương thay vì các thủ tục kiểm tra giấy tờ rườm rà trước đó; tạo điều kiện để người hưởng có quyền thay đổi địa điểm nhận tiền; tổ chức chi trả tất cả các ngày trong tuần, kể cả thứ bảy và chủ nhật. Đến kỳ chi trả tháng 10, những bất cập nêu trên đã cơ bản được Bưu điện tỉnh khắc phục.
Cùng với tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chi trả, Bưu điện tỉnh chú trọng đổi mới, nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ của toàn thể CBCNV; cử nhân viên đem tiền đến tận nhà để phát cho những trường hợp bị ốm đau, già yếu, đối tượng chính sách hoặc vì lý do nào đó không đến nhận lương hưu tại các điểm chi trả được.
Nhìn một cách đa chiều, tổng thể, cùng với các dịch vụ chuyển phát chứng minh thư, hộ chiếu; công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH đang tạo ra bước đột phá mới cho Bưu điện tỉnh trong nỗ lực cung ứng cho người dân một loại hình dịch vụ hành chính công ngày càng tiện ích; được lãnh đạo tỉnh và dư luận đánh giá cao tạo đà để Bưu điện Phú Thọ thực hiện các dịch vụ công phục vụ nhân dân trong thời gian tới.
Theo báo Phú Thọ
Khởi động kỳ chi trả lương hưu đầu tiên qua Bưu điện khá thuận lợi
Thực hiện hợp đồng dịch vụ về quản lý người hưởng và chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) hàng tháng qua bưu điện giữa BHXH tỉnh và Bưu điện tỉnh Kon Tum, ngành bưu điện tỉnh đã chính thức khởi động kỳ chi trả đầu tiên vào tháng 10/2013 cho gần 5.600 đối tượng tại địa bàn 9 huyện, thành phố trong toàn tỉnh, với tổng số tiền trên 16 tỷ đồng.
Quang cảnh trả lương hưu qua Bưu điện ký đầu tiên
Chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH qua hệ thống bưu điện là một phương thức chi trả mới. Mấy tháng liền trước khi chuyển giao công tác chi trả từ cơ quan BHXH qua bưu điện, ngoài việc bưu điện chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác chi trả và các điều kiện cần thiết thì, hai ngành đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý các phòng nghiệp vụ, nhân viên bưu điện tỉnh và lãnh đạo, kế toán trưởng của bưu điện 9 huyện, thành phố; đồng thời tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến đối tượng, đăng tải thông tin nhiều kỳ trên báo Kon Tum để đối tượng nắm bắt thời gian, địa điểm và các giấy tờ liên quan cần mang theo khi đi nhận lương hưu, trợ cấp BHXH. Nhờ đó, đông đảo đối tượng thụ hưởng đã chuẩn bị tâm lý nên gần như mọi việc diễn ra khá thuận lợi trong kỳ chi trả đầu tiên này.
Trong kỳ chi trả đầu tiên, Kon Tum có gần 5.600 đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được nhận từ hệ thống bưu điện với số tiền trên 16 tỷ đồng. Tỷ lệ chi trả thành công đạt cao, với 98,33% về số người nhận lương, 98,49% về số tiền chi trả. Trong đó, tại khu vực thành phố Kon Tum và huyện Đăk Hà là hai địa bàn có số người hưởng đông nhất với số tiền chi trả lớn nhất tỉnh. Tổng số đối tượng đã nhận lương hưu, trợ cấp BHXH ở 2 địa phương này xấp xỉ 3.490 người, với số tiền chi trả hàng tháng lên trên 10,2 tỷ đồng, chiếm 63,75% so với quy mô cả tỉnh. Mặc dù là khu vực thành phố, nhưng Kon Tum có đến 10 xã vùng ven. Để thuận lợi cho đối tượng, bưu điện đã tổ chức chi trả tại 20 điểm trong khu vực này (có 93 điểm chi trả/9 huyện, thành phố trong toàn tỉnh), tạo thuận lợi cho việc đi lại của đối tượng. Ông Nguyễn Hùng, một cán bộ hưu ở thành phố Kon Tum cho biết, thái độ phục vụ của nhân viên khá tận tình, chuẩn bị tiền chi trả chu đáo, kể cả tiền lẻ. Một số đối tượng khác còn cho biết thêm, họ cũng được nhân viên ân cần chi trả tại nhà ngoài giờ hành chính. Nhìn chung, hình thức chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng qua bưu điện ở Kon Tum đã có bước khởi đầu khá thuận lợi, được đông đảo đối tượng đón nhận.
Tuy nhiên, còn một số nội dung cần được tiếp tục khắc phục trong các kỳ chi trả tới, như do hạn quyết toán giữa bưu điện và BHXH đã được ấn định nên biên độ giao động thời gian chi trả ngắn, một bộ phận đối tượng có tâm lý bị thúc bách về mặt thời gian, giờ giấc nhận, lĩnh lương; trong giai đoạn đầu chi trả, quy định thủ tục hành chính trong một số trường hợp còn khuôn cứng, chưa linh hoạt; một số đối tượng ở các khu vực giao thông đi lại khó khăn chưa nắm bắt đầy đủ thông tin về phương thức chi trả mới, nhất là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa có phong tục sinh hoạt khép kín, ngại giao dịch với người lạ nên còn bỡ ngỡ. Ngoài ra, vẫn còn một số boăn khoăn khác từ phía đối tượng, như ông Hoàng Hữu Hà - Cán bộ hưu ở thành phố Kon Tum lo lắng, khi chúng tôi có thắc mắc về những vấn đề liên quan đến quyền lợi người hưởng thì phải chờ một thời gian mới được hồi đáp, giải quyết, bởi cơ quan BHXH tiếp nhận và trả lời ý kiến đối tượng qua trung gian bưu điện…
Theo tìm hiểu của chúng tôi, những hạn chế trên có một số nội dung chỉ mang tính tạm thời trong giai đoạn đầu khi bưu điện là chủ thể mới đảm nhiệm; một số nội dung khác thì mang tính cát cứ, đơn lẻ. Tuy vậy, theo một đại diện của ngành bưu điện thì, trong thời gian tới hệ thống bưu điện Kon Tum sẽ tiếp tục đổi mới trên nhiều phương diện để nâng cao chất lượng phục vụ, xác định mục tiêu phục vụ đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH không chỉ đơn thuần là một bước đi tích cực để phát huy tiềm lực trong kinh doanh mà còn là một nhiệm vụ chính trị - xã hội quan trọng. Do đó, ngành bưu điện Kon Tum quyết tâm tập trung làm tốt hơn nữa để cùng góp phần với ngành BHXH thực hiện thắng lợi công tác an sinh xã hội ở địa phương./.
Trong kỳ chi trả đầu tiên, Kon Tum có gần 5.600 đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được nhận từ hệ thống bưu điện với số tiền trên 16 tỷ đồng. Tỷ lệ chi trả thành công đạt cao, với 98,33% về số người nhận lương, 98,49% về số tiền chi trả. Trong đó, tại khu vực thành phố Kon Tum và huyện Đăk Hà là hai địa bàn có số người hưởng đông nhất với số tiền chi trả lớn nhất tỉnh. Tổng số đối tượng đã nhận lương hưu, trợ cấp BHXH ở 2 địa phương này xấp xỉ 3.490 người, với số tiền chi trả hàng tháng lên trên 10,2 tỷ đồng, chiếm 63,75% so với quy mô cả tỉnh. Mặc dù là khu vực thành phố, nhưng Kon Tum có đến 10 xã vùng ven. Để thuận lợi cho đối tượng, bưu điện đã tổ chức chi trả tại 20 điểm trong khu vực này (có 93 điểm chi trả/9 huyện, thành phố trong toàn tỉnh), tạo thuận lợi cho việc đi lại của đối tượng. Ông Nguyễn Hùng, một cán bộ hưu ở thành phố Kon Tum cho biết, thái độ phục vụ của nhân viên khá tận tình, chuẩn bị tiền chi trả chu đáo, kể cả tiền lẻ. Một số đối tượng khác còn cho biết thêm, họ cũng được nhân viên ân cần chi trả tại nhà ngoài giờ hành chính. Nhìn chung, hình thức chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng qua bưu điện ở Kon Tum đã có bước khởi đầu khá thuận lợi, được đông đảo đối tượng đón nhận.
Tuy nhiên, còn một số nội dung cần được tiếp tục khắc phục trong các kỳ chi trả tới, như do hạn quyết toán giữa bưu điện và BHXH đã được ấn định nên biên độ giao động thời gian chi trả ngắn, một bộ phận đối tượng có tâm lý bị thúc bách về mặt thời gian, giờ giấc nhận, lĩnh lương; trong giai đoạn đầu chi trả, quy định thủ tục hành chính trong một số trường hợp còn khuôn cứng, chưa linh hoạt; một số đối tượng ở các khu vực giao thông đi lại khó khăn chưa nắm bắt đầy đủ thông tin về phương thức chi trả mới, nhất là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa có phong tục sinh hoạt khép kín, ngại giao dịch với người lạ nên còn bỡ ngỡ. Ngoài ra, vẫn còn một số boăn khoăn khác từ phía đối tượng, như ông Hoàng Hữu Hà - Cán bộ hưu ở thành phố Kon Tum lo lắng, khi chúng tôi có thắc mắc về những vấn đề liên quan đến quyền lợi người hưởng thì phải chờ một thời gian mới được hồi đáp, giải quyết, bởi cơ quan BHXH tiếp nhận và trả lời ý kiến đối tượng qua trung gian bưu điện…
Theo tìm hiểu của chúng tôi, những hạn chế trên có một số nội dung chỉ mang tính tạm thời trong giai đoạn đầu khi bưu điện là chủ thể mới đảm nhiệm; một số nội dung khác thì mang tính cát cứ, đơn lẻ. Tuy vậy, theo một đại diện của ngành bưu điện thì, trong thời gian tới hệ thống bưu điện Kon Tum sẽ tiếp tục đổi mới trên nhiều phương diện để nâng cao chất lượng phục vụ, xác định mục tiêu phục vụ đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH không chỉ đơn thuần là một bước đi tích cực để phát huy tiềm lực trong kinh doanh mà còn là một nhiệm vụ chính trị - xã hội quan trọng. Do đó, ngành bưu điện Kon Tum quyết tâm tập trung làm tốt hơn nữa để cùng góp phần với ngành BHXH thực hiện thắng lợi công tác an sinh xã hội ở địa phương./.
Theo Cổng TTĐT Kon Tum
Chuyện quản lý:Dịch vụ trả lương hưu
Khác với số đông người lĩnh lương qua thẻ, một số cụ về hưu, mắt loà, chân chậm, nhớ không nổi số pin, không quen bấm máy, nên vẫn như ngày xưa, đều đặn hàng tháng các cụ đi lĩnh lương.
Thời kỳ đầu cán bộ Bảo hiểm chở tiền đến phát. Không mất mát một xu, nhưng thỉnh thoảng vẫn có chuyện phiền lòng cứ như là họ ban phát tiền cho mình vậy. Ấy là vì con mắt, giọng nói, cách làm của cán bộ nhà nước trước mặt các cụ, như là chuyện đá thúng, đụng nia.
Đến thời kỳ chuyển đổi, Bảo hiểm đẩy việc trả lương cho phường. Phường thuê người làm. Trăm hay, không bằng tay quen, tiền ngân hàng về chậm, đếm chậm, phát chậm. Tinh mơ các cụ gọi nhau đi xếp hàng. Xếp đến trưa, chưa được, người nhà lên thay. Có cụ về nhà và vội miếng cơm rồi lại lên chờ tiếp. Chậm chạp, mất quá nhiều giờ chờ đợi, thế là nảy sinh dịch vụ lĩnh lương hưu. Năm, bảy cụ hưu cùng tổ chọn người tin cậy, uỷ nhiệm lĩnh lương. Người lĩnh thay như thế mỗi tháng được thêm dăm, bảy chục nghìn.
Dịch vụ lĩnh lương nảy sinh từ sự chậm chạp của dịch vụ trả lương.
Đến bây giờ thì việc trả lương đã vào tay ngành Bưu điện. Cầm tờ phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp có in lôgô của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và chữ Gửi cả niềm tin của ngành Bưu điện, các cụ tin. Nhưng sướng hơn các cụ không phải xếp hàng, chẳng phải chờ đợi, tiền hưu đếm đủ từng đồng lẻ.
- Sao lại nhanh thế? tháng có một ngày, các cô chầm chậm cho chúng tôi đôi, ba câu chuyện.
Trách yêu thế, nhưng lĩnh tiền xong các cụ đã vồi vội ra cửa “về nhà trông cháu cho bố mẹ nó đi làm”.
Thế đấy, chỉ một chuyện lĩnh lương hưu có thể làm cho các cụ chạnh lòng; có thể làm cho các cụ buồn bực, có thể làm cho các cụ vui vẻ, trẻ trung. Nghĩ cho cùng đều là từ tổ chức quản lý mà ra cả.
Thời kỳ đầu cán bộ Bảo hiểm chở tiền đến phát. Không mất mát một xu, nhưng thỉnh thoảng vẫn có chuyện phiền lòng cứ như là họ ban phát tiền cho mình vậy. Ấy là vì con mắt, giọng nói, cách làm của cán bộ nhà nước trước mặt các cụ, như là chuyện đá thúng, đụng nia.
Đến thời kỳ chuyển đổi, Bảo hiểm đẩy việc trả lương cho phường. Phường thuê người làm. Trăm hay, không bằng tay quen, tiền ngân hàng về chậm, đếm chậm, phát chậm. Tinh mơ các cụ gọi nhau đi xếp hàng. Xếp đến trưa, chưa được, người nhà lên thay. Có cụ về nhà và vội miếng cơm rồi lại lên chờ tiếp. Chậm chạp, mất quá nhiều giờ chờ đợi, thế là nảy sinh dịch vụ lĩnh lương hưu. Năm, bảy cụ hưu cùng tổ chọn người tin cậy, uỷ nhiệm lĩnh lương. Người lĩnh thay như thế mỗi tháng được thêm dăm, bảy chục nghìn.
Dịch vụ lĩnh lương nảy sinh từ sự chậm chạp của dịch vụ trả lương.
Đến bây giờ thì việc trả lương đã vào tay ngành Bưu điện. Cầm tờ phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp có in lôgô của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và chữ Gửi cả niềm tin của ngành Bưu điện, các cụ tin. Nhưng sướng hơn các cụ không phải xếp hàng, chẳng phải chờ đợi, tiền hưu đếm đủ từng đồng lẻ.
- Sao lại nhanh thế? tháng có một ngày, các cô chầm chậm cho chúng tôi đôi, ba câu chuyện.
Trách yêu thế, nhưng lĩnh tiền xong các cụ đã vồi vội ra cửa “về nhà trông cháu cho bố mẹ nó đi làm”.
Thế đấy, chỉ một chuyện lĩnh lương hưu có thể làm cho các cụ chạnh lòng; có thể làm cho các cụ buồn bực, có thể làm cho các cụ vui vẻ, trẻ trung. Nghĩ cho cùng đều là từ tổ chức quản lý mà ra cả.
Theo báo Quảng Ninh
Chưa đăng kí chữ ký số vẫn được thực hiện hải quan điện tử
Tổng cục Hải quan vừa có văn bản 6378/TCHQ-CNTT hướng dẫn áp dụng chữ ký số trong thủ tục hải quan điện tử.
Theo Tổng cục Hải quan, đến nay, có nhiều doanh nghiệp đăng kí chữ ký số với cơ quan Hải quan. Nhưng do số doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử rất lớn (hơn 45.000 doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử) nên để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho phép từ ngày 1/11/2013, những doanh nghiệp chưa đăng kí chữ ký số vẫn tiếp tục thực hiện thủ tục hải quan điện tử bằng tài khoản đã đăng kí với cơ quan Hải quan.
Đối với doanh nghiệp đã đăng kí chữ ký số, Cục Hải quan các địa phương tiếp nhận khai hải quan điện tử sử dụng chữ ký số. Đồng thời các đơn vị tiếp tục tuyên truyền, phổ biến để thúc đẩy quá trình đăng kí và sử dụng chữ ký số trong thực hiện thủ tục hải quan điện tử.
Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi tiến độ đăng kí chữ ký số để xác định thời điểm bắt buộc sử dụng chữ ký số trong thủ tục hải quan điện tử.
Theo Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan (Tổng cục Hải quan), đến ngày 30/10 đã có gần 8.100 doanh nghiệp, với gần 9.100 chữ ký số được đăng kí (có trường hợp 1 doanh nghiệp đăng kí và sử dụng nhiều chữ ký số, điều này được phép thực hiện).
Theo Tổng cục Hải quan, đến nay, có nhiều doanh nghiệp đăng kí chữ ký số với cơ quan Hải quan. Nhưng do số doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử rất lớn (hơn 45.000 doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử) nên để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho phép từ ngày 1/11/2013, những doanh nghiệp chưa đăng kí chữ ký số vẫn tiếp tục thực hiện thủ tục hải quan điện tử bằng tài khoản đã đăng kí với cơ quan Hải quan.
Đối với doanh nghiệp đã đăng kí chữ ký số, Cục Hải quan các địa phương tiếp nhận khai hải quan điện tử sử dụng chữ ký số. Đồng thời các đơn vị tiếp tục tuyên truyền, phổ biến để thúc đẩy quá trình đăng kí và sử dụng chữ ký số trong thực hiện thủ tục hải quan điện tử.
Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi tiến độ đăng kí chữ ký số để xác định thời điểm bắt buộc sử dụng chữ ký số trong thủ tục hải quan điện tử.
Theo Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan (Tổng cục Hải quan), đến ngày 30/10 đã có gần 8.100 doanh nghiệp, với gần 9.100 chữ ký số được đăng kí (có trường hợp 1 doanh nghiệp đăng kí và sử dụng nhiều chữ ký số, điều này được phép thực hiện).
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2013
Bỏ ghi tên cha, mẹ trên Chứng minh nhân dân; hỗ trợ chi phí phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; điều kiện giao xe vi phạm hành chính cho đối tượng vi phạm; tự ý cơi nới chung cư bị phạt đến 60 triệu đồng;... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2013.
Bỏ ghi tên cha, mẹ trên Chứng minh nhân dân
Theo Nghị định 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 3/2/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân (CMND) đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007, bỏ cụm từ "họ và tên cha", "họ và tên mẹ" tại mặt sau của CMND.
Nghị định 106/2013/NĐ-CP cũng rút ngắn thời gian cấp mới, đổi, cấp lại CMND. Cụ thể, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ và làm xong thủ tục theo quy định, cơ quan Công an phải làm xong CMND cho công dân trong thời gian sớm nhất, thời gian giải quyết việc cấp CMND tại thành phố, thị xã là không quá 7 ngày làm việc đối với trường hợp cấp mới, cấp đổi, 15 ngày làm việc đối với trường hợp cấp lại; tại các huyện miền núi vùng cao, biên giới, hải đảo, thời gian giải quyết việc cấp CMND đối với tất cả các trường hợp là không quá 20 ngày làm việc; các khu vực còn lại thời gian giải quyết việc cấp CMND là không quá 15 ngày làm việc đối với tất cả các trường hợp.
Hiện nay thời gian cấp CMND tối đa không quá 15 ngày (ở thành phố, thị xã) và 30 ngày (ở địa bàn khác).
Nghị định 106/2013/NĐ-CP cũng nêu rõ, đối với CMND đã được cấp theo Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn theo quy định.
Nghị định 106/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 2/11/2013.
Hỗ trợ chi phí phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh
Quyết định về chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh có hiệu lực thi hành từ ngày 20/11/2013. Theo đó, đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ này là trẻ em có Thẻ bảo hiểm y tế: Thuộc hộ gia đình nghèo; thuộc hộ gia đình cận nghèo; thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy định của pháp luật.
Trong mỗi đợt khám, phẫu thuật tim, trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh sẽ được hỗ trợ chi phí khám bệnh có liên quan đến phẫu thuật tim, chi phí phẫu thuật tim. Cụ thể, Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám, phẫu thuật tim theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; ngân sách địa phương thanh toán phần chi phí mà Quỹ bảo hiểm y tế không thanh toán.
Ngoài ra, trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh còn được hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại trong mỗi đợt khám, phẫu thuật tim. Cụ thể, ngân sách địa phương hỗ trợ tiền ăn với mức 50.000 đồng/trẻ em/ngày, trong thời gian không quá 15 ngày; hỗ trợ tiền đi lại theo giá phương tiện công cộng thông thường.
Quy định việc tạm nhập khẩu, chuyển nhượng xe ô tô ngoại giao
Theo Quyết định về việc tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, tiêu hủy, chuyển nhượng đối với xe ô tô, xe hai bánh gắn máy của đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/2013, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì được tạm nhập khẩu miễn thuế 3 xe ô tô nếu cơ quan 5 người trở xuống (trường hợp cơ quan có thêm 3 người thì được nhập khẩu thêm 1 chiếc) sau khi được Bộ Ngoại giao cấp sổ định mức xe ô tô, xe gắn máy miễn thuế.
Viên chức ngoại giao thuộc cơ quan đại diện ngoại giao, viên chức lãnh sự thuộc cơ quan lãnh sự, viên chức thuộc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập (gọi tắt là viên chức ngoại giao) được tạm nhập khẩu miễn thuế 1 xe ô tô (riêng người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao được tạm nhập khẩu miễn thuế 2 xe ô tô) nếu thỏa mãn điều kiện có thời gian công tác tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tối thiểu từ 18 tháng trở lên kể từ ngày đối tượng được Bộ Ngoại giao cấp chứng minh thư và còn thời gian công tác tại Việt Nam tối thiểu từ 12 tháng trở lên (thời gian công tác tại Việt Nam ghi trên chứng minh thư do Bộ Ngoại giao cấp).
Quyết định cũng quy định cụ thể các trường hợp được tạm nhập khẩu miễn thuế xe ô tô, xe gắn máy để bổ sung đủ định lượng.
5 đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Theo Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn vừa được Chính phủ ban hành, có 5 đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn gồm:
- Đối tượng là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự;
- Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự;
- Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong 6 tháng đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng;
- Đối tượng là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định;
- Đối tượng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, trong 6 tháng đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm tài sản của cơ quan, tổ chức; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội.
Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với các đối tượng trên nhằm giám sát, quản lý, giáo dục họ tại nơi cư trú, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, khắc phục các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật.
5 điều kiện cấp giấy phép lao động nước ngoài
Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 11/11/2013, trong đó quy định 5 điều kiện cấp giấy phép lao động đối với người nước ngoài.
Thứ nhất, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc.
Thứ ba, là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật.
Đối với người lao động nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam hoặc làm việc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam về khám bệnh, chữa bệnh, giáo dục, đào tạo và dạy nghề.
Thứ tư, không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài.
Thứ năm, được chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng người lao động nước ngoài.
Thời hạn của giấy phép lao động được cấp là không quá 2 năm và theo thời hạn của một trong các trường hợp: Thời hạn của hợp đồng lao động dự kiến sẽ ký kết; thời hạn của phía nước ngoài cử người lao động nước ngoài sang làm việc tại Việt Nam; thời hạn hợp đồng hoặc thỏa thuận ký kết giữa đối tác phía Việt Nam và phía nước ngoài...
Điều kiện giao xe VPHC cho đối tượng vi phạm
Theo Nghị định quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (VPHC) bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính có hiệu lực từ ngày 18/11/2013, phương tiện giao thông VPHC thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt VPHC, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có đủ một trong 2 điều kiện dưới đây thì người có thẩm quyền tạm giữ có thể giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phương tiện dưới sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền tạm giữ.
Thứ nhất, cá nhân vi phạm phải xuất trình sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú hoặc có giấy xác nhận của cơ quan, đơn vị về nơi công tác; nếu tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận; có nơi giữ, bảo quản phương tiện đáp ứng các điều kiện quy định.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được giữ, bảo quản phương tiện.
Khi giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ tên, số lượng, khối lượng, đặc điểm, chủng loại, nhãn hiệu, xuất xứ, nơi giữ, bảo quản, tình trạng của phương tiện (nếu có) và phải có chữ ký của tổ chức, cá nhân vi phạm và người có thẩm quyền tạm giữ.
Điều kiện tham gia đấu thầu thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
Theo Nghị định sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, nhà thầu tham gia đấu thầu thực hiện sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích phải có đủ 4 điều kiện.
Thứ nhất, có tư cách hợp lệ theo quy định của Luật Đấu thầu.
Thứ hai, chỉ được tham gia trong một hồ sơ dự thầu đối với một gói thầu với tư cách là nhà thầu độc lập hoặc là nhà thầu liên danh. Trường hợp liên danh phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên, trong đó quy định rõ người đứng đầu của liên danh, trách nhiệm chung và trách nhiệm riêng của từng thành viên đối với công việc thuộc gói thầu.
Thứ ba, đáp ứng yêu cầu nêu trong thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu của bên mời thầu.
Thứ tư, bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản và Nghị định số 85/2009/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 29/11/2013.
Tự ý cơi nới chung cư phạt đến 60 triệu đồng
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở, đối với một trong các hành vi vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư như: Xả rác thải, nước thải, khí thải, chất độc hại bừa bãi, gây thấm, dột, ô nhiễm môi trường; sử dụng kinh phí quản lý vận hành hoặc kinh phí bảo trì phần sở hữu chung nhà chung cư không đúng quy định; sử dụng màu sắc sơn, trang trí mặt ngoài căn hộ, nhà chung cư trái quy định thì sẽ bị phạt tiền từ 10-20 triệu đồng.
Ngoài ra, phạt tiền từ 50-60 triệu đồng đối với một trong các hành vi vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư như: Kinh doanh nhà hàng, karaoke, vũ trường; Sửa chữa xe máy; kinh doanh gia súc, gia cầm; hoạt động giết mổ gia súc; Kinh doanh gas hoặc các vật liệu nổ, dễ cháy.
Hành vi tự ý cơi nới, chiếm dụng diện tích, không gian hoặc làm hư hỏng tài sản thuộc phần sở hữu chung hoặc phần sử dụng chung dưới mọi hình thức; đục phá, cải tạo, tháo dỡ kết cấu của phần sở hữu chung, phần sở hữu riêng hoặc phần sử dụng riêng; thay đổi phần kết cấu chịu lực, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị sử dụng chung, kiến trúc bên ngoài của nhà chung cư cũng bị phạt tiền từ 50-60 triệu đồng.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 30/11/2013.
Mức trần thù lao luật sư trong vụ án hình sự
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, trong đó quy định mức trần thù lao luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự.
Cụ thể, mức thù lao luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự do khách hàng và văn phòng luật sư, công ty luật thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa trên các căn cứ quy định tại Luật Luật sư và được tính theo giờ hoặc tính trọn gói theo vụ việc, nhưng mức cao nhất cho 1 giờ làm việc của luật sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định.
Thời gian làm việc của luật sư do luật sư và khách hàng thoả thuận.
Khuyến khích văn phòng luật sư, công ty luật miễn, giảm thù lao luật sư cho những người nghèo, đối tượng chính sách.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 18/11/2013.
Phạt nặng VPHC về giá, phí, lệ phí, hóa đơn
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn có hiệu lực thi hành từ 9/11/2013, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân thực hiện hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý giá là 150 triệu đồng; trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí, hóa đơn là 50 triệu đồng.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn là 1 năm; trong lĩnh vực giá, phí, lệ phí là 2 năm.
Nghị định nêu rõ, phạt tiền từ 10-15 triệu đồng đối với hành vi bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật về tình hình thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ gây tâm lý hoang mang trong xã hội và bất ổn thị trường.
Mức phạt từ 20-50 triệu đồng sẽ áp dụng đối với hành vi cho, bán hóa đơn đã mua nhưng chưa lập. Mức phạt này cũng được áp dụng đối với hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp và hành vi sử dụng bất hợp pháp hóa đơn.
Phạt đến 3 triệu đồng nếu kết hôn với người khác khi đang có vợ, chồng
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã... có hiệu lực từ ngày 11/11/2013, người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ cũng bị phạt tiền từ 1-3 triệu đồng.
Mức phạt này cũng áp dụng đối với người đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Nghị định cũng quy định xử phạt hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn. Cụ thể, cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ hoặc lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
Xử nghiêm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi đã được Chính phủ ban hành, hành vi vi phạm giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật chứa chất cấm sử dụng trong chăn nuôi bị phạt tiền từ 10-15 triệu đồng.
Mức phạt trên cũng áp dụng đối với một trong các hành vi vi phạm: Kinh doanh động vật mắc bệnh thuộc Danh mục các bệnh phải công bố dịch; kinh doanh sản phẩm của động vật bị giết mổ bắt buộc ở dạng tươi sống; kinh doanh sản phẩm của động vật mang mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Phạt tiền từ 6-7 triệu đồng đối với hành vi vi phạm đưa vào cơ sở giết mổ động vật chết, động vật mắc bệnh truyền nhiễm hoặc tẩu tán động vật chết, động vật mắc bệnh truyền nhiễm khi chưa được cơ quan thú y kiểm tra, xử lý.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 25/11/2003.
Sản xuất trái phép quân phục phạt đến 40 triệu đồng
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu có hiệu lực thi hành từ 22/11/2013, phạt tiền từ 30 - 40 triệu đồng đối với các hành vi sản xuất trái phép, làm giả quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, cành tùng, biển tên quân nhân, biểu tượng quân binh chủng, mũ kêpi, mũ dã chiến, lễ phục, quân phục thường dùng, quân phục dã chiến, quân phục nghiệp vụ và các loại quân trang khác.
Ngoài ra, phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Đội mũ có gắn quân hiệu trái phép; mặc quân phục có gắn cấp hiệu hoặc phù hiệu, cành tùng, biển tên quân nhân, biểu tượng quân binh chủng trái phép.
Sử dụng điện lưới để khai thác thủy sản bị phạt tới 15 triệu đồng
Đây là nội dung được nêu tại Nghị định 103/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản, có hiệu lực thi hành từ 1/11/2013.
Nghị định nêu rõ nhiều mức phạt đối với vi phạm quy định về sử dụng điện để khai thác thủy sản. Theo đó, phạt tiền từ 1-2 triệu đồng đối với hành vi sử dụng công cụ kích điện để khai thác thủy sản; phạt tiền từ 3-5 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển công cụ kích điện trên tàu cá hoặc phương tiện nổi khác; phạt tiền từ 10-15 triệu đồng đối với hành vi sử dụng điện lưới để khai thác thủy sản…
Ngoài ra, còn có hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu công cụ kích điện, công cụ kích điện trên tàu cá, công cụ sử dụng điện lưới để khai thác thủy sản; tước quyền sử dụng giấy phép khai thác thủy sản từ 3-6 tháng đối với hành vi sử dụng công cụ kích điện hoặc sử dụng trực tiếp điện từ máy phát điện trên tàu cá hoặc phương tiện nổi khác để khai thác thuỷ sản.
Tăng mức phạt VPHC trong lĩnh vực chứng khoán
Thay vì chỉ phạt tối đa đến 500 triệu đồng, từ 15/11/2013, mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với tổ chức vi phạm tăng lên 2 tỷ đồng và đối với cá nhân vi phạm là 1 tỷ đồng.
Đây là quy định tại Nghị định 108/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán vừa được Chính phủ ban hành, thay thế Nghị định 85/2010/NĐ-CP.
Đối với hành vi gian lận hoặc tạo dựng, công bố thông tin sai sự thật nhằm lôi kéo, xúi giục việc mua, bán chứng khoán thì sẽ bị phạt tiền từ 1,2-1,4 tỷ đồng.
Phạt tiền từ 1-1,2 tỷ đồng đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường chứng khoán.
Đối với hành vi lập, xác nhận hồ sơ giả mạo để niêm yết chứng khoán hoặc đăng ký giao dịch chứng khoán sẽ bị phạt tiền từ 1,8-2 tỷ đồng.
Phạt nặng nếu nhập khẩu thuốc BVTV bị cấm sử dụng
Theo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật có hiệu lực thi hành từ ngày 20/11/2013, đối với hành vi nhập khẩu thuốc hoặc nguyên liệu thuốc BVTV trong Danh mục thuốc BVTV cấm sử dụng ở Việt Nam mà không có Giấy phép sẽ bị phạt tiền từ 40-50 triệu đồng.
Sử dụng thuốc BVTV không đúng nội dung hướng dẫn ghi trên bao gói gây nguy hiểm cho người, gia súc và làm ô nhiễm môi trường cũng sẽ bị phạt với mức phạt nêu trên.
Đối với một trong các hành vi vi phạm: Sử dụng thuốc BVTV không có tên trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng và hạn chế sử dụng ở Việt Nam; sử dụng thuốc BVTV dưới dạng ống tiêm thủy tinh sẽ bị phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng.
Xử phạt vi phạm hành chính về năng lượng nguyên tử
Theo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử có hiệu lực từ ngày 15/11/2013, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân là 1 tỷ đồng, đối với tổ chức là 2 tỷ đồng.
Nghị định nêu rõ, phạt tiền từ 2-5 triệu đồng đối với cá nhân có một trong các hành vi: Không có biển báo bức xạ, dấu hiệu cảnh báo bức xạ tại khu vực kiểm soát, khu vực giám sát; không có nội quy ra vào khu vực kiểm soát, khu vực giám sát; không bố trí người giám sát việc ra vào khu vực kiểm soát.
Mức phạt trên cũng áp dụng đối với một trong các hành vi: Không trang bị dụng cụ bảo hộ thích hợp cho người làm việc với nguồn phóng xạ hở; không trang bị dụng cụ bảo hộ thích hợp cho người sử dụng thiết bị X-quang để chụp, soi chiếu, chẩn đoán.
Đối với hành vi nhập khẩu chất thải phóng xạ thì sẽ bị phạt tiền từ 150-300 triệu đồng.
Đặc biệt, mức phạt tiền tối đa từ 500 triệu-1 tỷ đồng được áp dụng đối với 2 hành vi: Để xảy ra sự cố hạt nhân trong trường hợp hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; và Chiếm đoạt, phá hoại, chuyển giao, sử dụng bất hợp pháp vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân.
Áp dụng thuế suất 5% đối với nhà ở xã hội
Theo Thông tư 141/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 92/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% kể từ ngày 1/7/2013 đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội.
Trường hợp bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng theo hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở xã hội được ký từ ngày 01/7/2013 và áp dụng với số tiền thanh toán từ ngày 01/7/2013 đối với hợp đồng ký trước ngày 01/7/2013.
Trường hợp cho thuê nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng căn cứ vào thời điểm thu tiền theo hợp đồng (kể cả trường hợp thu tiền trước cho nhiều kỳ) kể từ ngày 01/7/2013. Trường hợp doanh nghiệp chưa nhận được tiền thuê nhà kể từ ngày 01/7/2013 thì áp dụng theo thời điểm xuất hoá đơn.
Thông tư 141/2013/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 30/11/2013.
Thí điểm thuế TNDN đối với tổ chức tài chính vi mô
Thông tư số 135/2013/TT- BTC hướng dẫn áp dụng thí điểm chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Tổ chức tài chính vi mô, được thực hiện từ 11/11/2013.
Đối tượng áp dụng là tổ chức tài chính vi mô được Ngân hàng Nhà nước cấp phép thành lập trước ngày 01/01/2014 theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 nhưng không đủ điều kiện được áp dụng các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo diện doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo Quy định tại Nghị định số 124/2008/NĐ-CP của Chính phủ.
Thông tư quy định, áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% trong suốt thời gian hoạt động đối với phần thu nhập có được từ việc thực hiện hoạt động tài chính vi mô. Từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại khoản này chuyển sang mức 17%.
Đối với phần thu nhập có được từ việc thực hiện hoạt động tài chính vi mô được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo.
Thời gian miễn thuế, giảm thuế theo quy định được tính liên tục từ năm đầu tiên kể từ khi tổ chức tài chính vi mô có thu nhập chịu thuế từ thực hiện hoạt động tài chính vi mô. Trường hợp tổ chức tài chính vi mô không có thu nhập chịu thuế trong ba năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh thu từ thực hiện hoạt động tài chính vi mô thì thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm thứ tư.
Ban hành danh mục sữa thuộc diện thực hiện bình ổn giá
Theo Thông tư số 30/2013/TT-BYT có hiệu lực từ ngày 20/11/2013, danh mục sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi thuộc hàng hóa thực hiện bình ổn giá gồm:
Thứ nhất, sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ đến 36 tháng tuổi theo các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ Y tế ban hành.
Thứ hai, sữa và các sản phẩm dinh dưỡng có chứa sữa động vật dưới dạng bột hoặc dạng lỏng có công bố sử dụng cho trẻ em dưới 6 tuổi nhưng không theo các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Danh mục này là cơ sở để Bộ Tài chính thực hiện quản lý giá theo quy định của pháp luật về giá.
Bỏ ghi tên cha, mẹ trên Chứng minh nhân dân
Theo Nghị định 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 3/2/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân (CMND) đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007, bỏ cụm từ "họ và tên cha", "họ và tên mẹ" tại mặt sau của CMND.
Nghị định 106/2013/NĐ-CP cũng rút ngắn thời gian cấp mới, đổi, cấp lại CMND. Cụ thể, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ và làm xong thủ tục theo quy định, cơ quan Công an phải làm xong CMND cho công dân trong thời gian sớm nhất, thời gian giải quyết việc cấp CMND tại thành phố, thị xã là không quá 7 ngày làm việc đối với trường hợp cấp mới, cấp đổi, 15 ngày làm việc đối với trường hợp cấp lại; tại các huyện miền núi vùng cao, biên giới, hải đảo, thời gian giải quyết việc cấp CMND đối với tất cả các trường hợp là không quá 20 ngày làm việc; các khu vực còn lại thời gian giải quyết việc cấp CMND là không quá 15 ngày làm việc đối với tất cả các trường hợp.
Hiện nay thời gian cấp CMND tối đa không quá 15 ngày (ở thành phố, thị xã) và 30 ngày (ở địa bàn khác).
Nghị định 106/2013/NĐ-CP cũng nêu rõ, đối với CMND đã được cấp theo Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn theo quy định.
Nghị định 106/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 2/11/2013.
Hỗ trợ chi phí phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh
Quyết định về chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh có hiệu lực thi hành từ ngày 20/11/2013. Theo đó, đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ này là trẻ em có Thẻ bảo hiểm y tế: Thuộc hộ gia đình nghèo; thuộc hộ gia đình cận nghèo; thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy định của pháp luật.
Trong mỗi đợt khám, phẫu thuật tim, trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh sẽ được hỗ trợ chi phí khám bệnh có liên quan đến phẫu thuật tim, chi phí phẫu thuật tim. Cụ thể, Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám, phẫu thuật tim theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; ngân sách địa phương thanh toán phần chi phí mà Quỹ bảo hiểm y tế không thanh toán.
Ngoài ra, trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh còn được hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại trong mỗi đợt khám, phẫu thuật tim. Cụ thể, ngân sách địa phương hỗ trợ tiền ăn với mức 50.000 đồng/trẻ em/ngày, trong thời gian không quá 15 ngày; hỗ trợ tiền đi lại theo giá phương tiện công cộng thông thường.
Quy định việc tạm nhập khẩu, chuyển nhượng xe ô tô ngoại giao
Theo Quyết định về việc tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, tiêu hủy, chuyển nhượng đối với xe ô tô, xe hai bánh gắn máy của đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/2013, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì được tạm nhập khẩu miễn thuế 3 xe ô tô nếu cơ quan 5 người trở xuống (trường hợp cơ quan có thêm 3 người thì được nhập khẩu thêm 1 chiếc) sau khi được Bộ Ngoại giao cấp sổ định mức xe ô tô, xe gắn máy miễn thuế.
Viên chức ngoại giao thuộc cơ quan đại diện ngoại giao, viên chức lãnh sự thuộc cơ quan lãnh sự, viên chức thuộc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập (gọi tắt là viên chức ngoại giao) được tạm nhập khẩu miễn thuế 1 xe ô tô (riêng người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao được tạm nhập khẩu miễn thuế 2 xe ô tô) nếu thỏa mãn điều kiện có thời gian công tác tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tối thiểu từ 18 tháng trở lên kể từ ngày đối tượng được Bộ Ngoại giao cấp chứng minh thư và còn thời gian công tác tại Việt Nam tối thiểu từ 12 tháng trở lên (thời gian công tác tại Việt Nam ghi trên chứng minh thư do Bộ Ngoại giao cấp).
Quyết định cũng quy định cụ thể các trường hợp được tạm nhập khẩu miễn thuế xe ô tô, xe gắn máy để bổ sung đủ định lượng.
5 đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Theo Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn vừa được Chính phủ ban hành, có 5 đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn gồm:
- Đối tượng là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự;
- Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự;
- Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong 6 tháng đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng;
- Đối tượng là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định;
- Đối tượng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, trong 6 tháng đã ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm tài sản của cơ quan, tổ chức; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội.
Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với các đối tượng trên nhằm giám sát, quản lý, giáo dục họ tại nơi cư trú, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, khắc phục các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật.
5 điều kiện cấp giấy phép lao động nước ngoài
Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 11/11/2013, trong đó quy định 5 điều kiện cấp giấy phép lao động đối với người nước ngoài.
Thứ nhất, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc.
Thứ ba, là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật.
Đối với người lao động nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam hoặc làm việc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam về khám bệnh, chữa bệnh, giáo dục, đào tạo và dạy nghề.
Thứ tư, không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài.
Thứ năm, được chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng người lao động nước ngoài.
Thời hạn của giấy phép lao động được cấp là không quá 2 năm và theo thời hạn của một trong các trường hợp: Thời hạn của hợp đồng lao động dự kiến sẽ ký kết; thời hạn của phía nước ngoài cử người lao động nước ngoài sang làm việc tại Việt Nam; thời hạn hợp đồng hoặc thỏa thuận ký kết giữa đối tác phía Việt Nam và phía nước ngoài...
Điều kiện giao xe VPHC cho đối tượng vi phạm
Theo Nghị định quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (VPHC) bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính có hiệu lực từ ngày 18/11/2013, phương tiện giao thông VPHC thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt VPHC, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có đủ một trong 2 điều kiện dưới đây thì người có thẩm quyền tạm giữ có thể giao cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phương tiện dưới sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền tạm giữ.
Thứ nhất, cá nhân vi phạm phải xuất trình sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú hoặc có giấy xác nhận của cơ quan, đơn vị về nơi công tác; nếu tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận; có nơi giữ, bảo quản phương tiện đáp ứng các điều kiện quy định.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được giữ, bảo quản phương tiện.
Khi giao phương tiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ tên, số lượng, khối lượng, đặc điểm, chủng loại, nhãn hiệu, xuất xứ, nơi giữ, bảo quản, tình trạng của phương tiện (nếu có) và phải có chữ ký của tổ chức, cá nhân vi phạm và người có thẩm quyền tạm giữ.
Điều kiện tham gia đấu thầu thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
Theo Nghị định sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, nhà thầu tham gia đấu thầu thực hiện sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích phải có đủ 4 điều kiện.
Thứ nhất, có tư cách hợp lệ theo quy định của Luật Đấu thầu.
Thứ hai, chỉ được tham gia trong một hồ sơ dự thầu đối với một gói thầu với tư cách là nhà thầu độc lập hoặc là nhà thầu liên danh. Trường hợp liên danh phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên, trong đó quy định rõ người đứng đầu của liên danh, trách nhiệm chung và trách nhiệm riêng của từng thành viên đối với công việc thuộc gói thầu.
Thứ ba, đáp ứng yêu cầu nêu trong thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu của bên mời thầu.
Thứ tư, bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản và Nghị định số 85/2009/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 29/11/2013.
Tự ý cơi nới chung cư phạt đến 60 triệu đồng
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở, đối với một trong các hành vi vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư như: Xả rác thải, nước thải, khí thải, chất độc hại bừa bãi, gây thấm, dột, ô nhiễm môi trường; sử dụng kinh phí quản lý vận hành hoặc kinh phí bảo trì phần sở hữu chung nhà chung cư không đúng quy định; sử dụng màu sắc sơn, trang trí mặt ngoài căn hộ, nhà chung cư trái quy định thì sẽ bị phạt tiền từ 10-20 triệu đồng.
Ngoài ra, phạt tiền từ 50-60 triệu đồng đối với một trong các hành vi vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư như: Kinh doanh nhà hàng, karaoke, vũ trường; Sửa chữa xe máy; kinh doanh gia súc, gia cầm; hoạt động giết mổ gia súc; Kinh doanh gas hoặc các vật liệu nổ, dễ cháy.
Hành vi tự ý cơi nới, chiếm dụng diện tích, không gian hoặc làm hư hỏng tài sản thuộc phần sở hữu chung hoặc phần sử dụng chung dưới mọi hình thức; đục phá, cải tạo, tháo dỡ kết cấu của phần sở hữu chung, phần sở hữu riêng hoặc phần sử dụng riêng; thay đổi phần kết cấu chịu lực, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị sử dụng chung, kiến trúc bên ngoài của nhà chung cư cũng bị phạt tiền từ 50-60 triệu đồng.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 30/11/2013.
Mức trần thù lao luật sư trong vụ án hình sự
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, trong đó quy định mức trần thù lao luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự.
Cụ thể, mức thù lao luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự do khách hàng và văn phòng luật sư, công ty luật thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa trên các căn cứ quy định tại Luật Luật sư và được tính theo giờ hoặc tính trọn gói theo vụ việc, nhưng mức cao nhất cho 1 giờ làm việc của luật sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định.
Thời gian làm việc của luật sư do luật sư và khách hàng thoả thuận.
Khuyến khích văn phòng luật sư, công ty luật miễn, giảm thù lao luật sư cho những người nghèo, đối tượng chính sách.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 18/11/2013.
Phạt nặng VPHC về giá, phí, lệ phí, hóa đơn
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn có hiệu lực thi hành từ 9/11/2013, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân thực hiện hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý giá là 150 triệu đồng; trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí, hóa đơn là 50 triệu đồng.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn là 1 năm; trong lĩnh vực giá, phí, lệ phí là 2 năm.
Nghị định nêu rõ, phạt tiền từ 10-15 triệu đồng đối với hành vi bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật về tình hình thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ gây tâm lý hoang mang trong xã hội và bất ổn thị trường.
Mức phạt từ 20-50 triệu đồng sẽ áp dụng đối với hành vi cho, bán hóa đơn đã mua nhưng chưa lập. Mức phạt này cũng được áp dụng đối với hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp và hành vi sử dụng bất hợp pháp hóa đơn.
Phạt đến 3 triệu đồng nếu kết hôn với người khác khi đang có vợ, chồng
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã... có hiệu lực từ ngày 11/11/2013, người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ cũng bị phạt tiền từ 1-3 triệu đồng.
Mức phạt này cũng áp dụng đối với người đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Nghị định cũng quy định xử phạt hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn. Cụ thể, cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ hoặc lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
Xử nghiêm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi đã được Chính phủ ban hành, hành vi vi phạm giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật chứa chất cấm sử dụng trong chăn nuôi bị phạt tiền từ 10-15 triệu đồng.
Mức phạt trên cũng áp dụng đối với một trong các hành vi vi phạm: Kinh doanh động vật mắc bệnh thuộc Danh mục các bệnh phải công bố dịch; kinh doanh sản phẩm của động vật bị giết mổ bắt buộc ở dạng tươi sống; kinh doanh sản phẩm của động vật mang mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Phạt tiền từ 6-7 triệu đồng đối với hành vi vi phạm đưa vào cơ sở giết mổ động vật chết, động vật mắc bệnh truyền nhiễm hoặc tẩu tán động vật chết, động vật mắc bệnh truyền nhiễm khi chưa được cơ quan thú y kiểm tra, xử lý.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 25/11/2003.
Sản xuất trái phép quân phục phạt đến 40 triệu đồng
Theo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu có hiệu lực thi hành từ 22/11/2013, phạt tiền từ 30 - 40 triệu đồng đối với các hành vi sản xuất trái phép, làm giả quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, cành tùng, biển tên quân nhân, biểu tượng quân binh chủng, mũ kêpi, mũ dã chiến, lễ phục, quân phục thường dùng, quân phục dã chiến, quân phục nghiệp vụ và các loại quân trang khác.
Ngoài ra, phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Đội mũ có gắn quân hiệu trái phép; mặc quân phục có gắn cấp hiệu hoặc phù hiệu, cành tùng, biển tên quân nhân, biểu tượng quân binh chủng trái phép.
Sử dụng điện lưới để khai thác thủy sản bị phạt tới 15 triệu đồng
Đây là nội dung được nêu tại Nghị định 103/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản, có hiệu lực thi hành từ 1/11/2013.
Nghị định nêu rõ nhiều mức phạt đối với vi phạm quy định về sử dụng điện để khai thác thủy sản. Theo đó, phạt tiền từ 1-2 triệu đồng đối với hành vi sử dụng công cụ kích điện để khai thác thủy sản; phạt tiền từ 3-5 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển công cụ kích điện trên tàu cá hoặc phương tiện nổi khác; phạt tiền từ 10-15 triệu đồng đối với hành vi sử dụng điện lưới để khai thác thủy sản…
Ngoài ra, còn có hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu công cụ kích điện, công cụ kích điện trên tàu cá, công cụ sử dụng điện lưới để khai thác thủy sản; tước quyền sử dụng giấy phép khai thác thủy sản từ 3-6 tháng đối với hành vi sử dụng công cụ kích điện hoặc sử dụng trực tiếp điện từ máy phát điện trên tàu cá hoặc phương tiện nổi khác để khai thác thuỷ sản.
Tăng mức phạt VPHC trong lĩnh vực chứng khoán
Thay vì chỉ phạt tối đa đến 500 triệu đồng, từ 15/11/2013, mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với tổ chức vi phạm tăng lên 2 tỷ đồng và đối với cá nhân vi phạm là 1 tỷ đồng.
Đây là quy định tại Nghị định 108/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán vừa được Chính phủ ban hành, thay thế Nghị định 85/2010/NĐ-CP.
Đối với hành vi gian lận hoặc tạo dựng, công bố thông tin sai sự thật nhằm lôi kéo, xúi giục việc mua, bán chứng khoán thì sẽ bị phạt tiền từ 1,2-1,4 tỷ đồng.
Phạt tiền từ 1-1,2 tỷ đồng đối với hành vi giao dịch thao túng thị trường chứng khoán.
Đối với hành vi lập, xác nhận hồ sơ giả mạo để niêm yết chứng khoán hoặc đăng ký giao dịch chứng khoán sẽ bị phạt tiền từ 1,8-2 tỷ đồng.
Phạt nặng nếu nhập khẩu thuốc BVTV bị cấm sử dụng
Theo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật có hiệu lực thi hành từ ngày 20/11/2013, đối với hành vi nhập khẩu thuốc hoặc nguyên liệu thuốc BVTV trong Danh mục thuốc BVTV cấm sử dụng ở Việt Nam mà không có Giấy phép sẽ bị phạt tiền từ 40-50 triệu đồng.
Sử dụng thuốc BVTV không đúng nội dung hướng dẫn ghi trên bao gói gây nguy hiểm cho người, gia súc và làm ô nhiễm môi trường cũng sẽ bị phạt với mức phạt nêu trên.
Đối với một trong các hành vi vi phạm: Sử dụng thuốc BVTV không có tên trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng và hạn chế sử dụng ở Việt Nam; sử dụng thuốc BVTV dưới dạng ống tiêm thủy tinh sẽ bị phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng.
Xử phạt vi phạm hành chính về năng lượng nguyên tử
Theo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử có hiệu lực từ ngày 15/11/2013, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân là 1 tỷ đồng, đối với tổ chức là 2 tỷ đồng.
Nghị định nêu rõ, phạt tiền từ 2-5 triệu đồng đối với cá nhân có một trong các hành vi: Không có biển báo bức xạ, dấu hiệu cảnh báo bức xạ tại khu vực kiểm soát, khu vực giám sát; không có nội quy ra vào khu vực kiểm soát, khu vực giám sát; không bố trí người giám sát việc ra vào khu vực kiểm soát.
Mức phạt trên cũng áp dụng đối với một trong các hành vi: Không trang bị dụng cụ bảo hộ thích hợp cho người làm việc với nguồn phóng xạ hở; không trang bị dụng cụ bảo hộ thích hợp cho người sử dụng thiết bị X-quang để chụp, soi chiếu, chẩn đoán.
Đối với hành vi nhập khẩu chất thải phóng xạ thì sẽ bị phạt tiền từ 150-300 triệu đồng.
Đặc biệt, mức phạt tiền tối đa từ 500 triệu-1 tỷ đồng được áp dụng đối với 2 hành vi: Để xảy ra sự cố hạt nhân trong trường hợp hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; và Chiếm đoạt, phá hoại, chuyển giao, sử dụng bất hợp pháp vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân.
Áp dụng thuế suất 5% đối với nhà ở xã hội
Theo Thông tư 141/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 92/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% kể từ ngày 1/7/2013 đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội.
Trường hợp bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng theo hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở xã hội được ký từ ngày 01/7/2013 và áp dụng với số tiền thanh toán từ ngày 01/7/2013 đối với hợp đồng ký trước ngày 01/7/2013.
Trường hợp cho thuê nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng căn cứ vào thời điểm thu tiền theo hợp đồng (kể cả trường hợp thu tiền trước cho nhiều kỳ) kể từ ngày 01/7/2013. Trường hợp doanh nghiệp chưa nhận được tiền thuê nhà kể từ ngày 01/7/2013 thì áp dụng theo thời điểm xuất hoá đơn.
Thông tư 141/2013/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 30/11/2013.
Thí điểm thuế TNDN đối với tổ chức tài chính vi mô
Thông tư số 135/2013/TT- BTC hướng dẫn áp dụng thí điểm chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Tổ chức tài chính vi mô, được thực hiện từ 11/11/2013.
Đối tượng áp dụng là tổ chức tài chính vi mô được Ngân hàng Nhà nước cấp phép thành lập trước ngày 01/01/2014 theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 nhưng không đủ điều kiện được áp dụng các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo diện doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo Quy định tại Nghị định số 124/2008/NĐ-CP của Chính phủ.
Thông tư quy định, áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% trong suốt thời gian hoạt động đối với phần thu nhập có được từ việc thực hiện hoạt động tài chính vi mô. Từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại khoản này chuyển sang mức 17%.
Đối với phần thu nhập có được từ việc thực hiện hoạt động tài chính vi mô được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo.
Thời gian miễn thuế, giảm thuế theo quy định được tính liên tục từ năm đầu tiên kể từ khi tổ chức tài chính vi mô có thu nhập chịu thuế từ thực hiện hoạt động tài chính vi mô. Trường hợp tổ chức tài chính vi mô không có thu nhập chịu thuế trong ba năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh thu từ thực hiện hoạt động tài chính vi mô thì thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm thứ tư.
Ban hành danh mục sữa thuộc diện thực hiện bình ổn giá
Theo Thông tư số 30/2013/TT-BYT có hiệu lực từ ngày 20/11/2013, danh mục sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi thuộc hàng hóa thực hiện bình ổn giá gồm:
Thứ nhất, sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ đến 36 tháng tuổi theo các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ Y tế ban hành.
Thứ hai, sữa và các sản phẩm dinh dưỡng có chứa sữa động vật dưới dạng bột hoặc dạng lỏng có công bố sử dụng cho trẻ em dưới 6 tuổi nhưng không theo các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Danh mục này là cơ sở để Bộ Tài chính thực hiện quản lý giá theo quy định của pháp luật về giá.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Về quyết định nghỉ việc hưởng chế độ BHXH
Bà Mai Kiều Trang (Hải Phòng) đề nghị tư vấn việc giải quyết chế độ hưu trí đối với trường hợp 1 công chức nam ở cơ quan bà Trang, năm nay 52 tuổi, đã tham gia BHXH trên 20 năm, được giám định y khoa kết luận suy giảm khả năng lao động trên 61% và được UBND huyện ra quyết định nghỉ việc.
Tuy nhiên, cơ quan BHXH yêu cầu phải có quyết định nghỉ hưu thì mới giải quyết chế độ hưởng lương hưu hàng tháng cho công chức đó.
Theo UBND huyện, việc ra quyết định nghỉ việc là đúng, còn BHXH yêu cầu phải thay đổi quyết định nghỉ việc thành quyết định nghỉ hưu. Vì lý do này mà công chức đó vẫn chưa được nhận lương hưu. Bà Trang hỏi, vậy ý kiến của cơ quan nào là đúng?
Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội giải đáp thắc mắc của bà Trang như sau:
Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động được quy định tại Điều 51, Luật BHXH và hướng dẫn tại Điều 27, Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ như sau:
Người lao động đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với mức lương hưu của người đủ điều kiện (quy định tại Điều 50 Luật BHXH và Điều 26 Nghị định này) khi nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên.
Đối với trường hợp có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thì không kể tuổi đời.
Hồ sơ hưởng lương hưu hàng tháng
Căn cứ Điều 119 Luật BHXH, hồ sơ hưởng lương hưu hàng tháng đối với người lao động đang đóng BHXH bắt buộc, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà nam từ đủ 50 tuổi trở lên, nữ từ đủ 45 tuổi trở lên hoặc trường hợp không phụ thuộc vào tuổi đời do có đủ 15 năm làm nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại gửi cơ quan BHXH gồm:
- Sổ bảo hiểm xã hội (1 bản chính).
- Quyết định nghỉ việc hoặc bản chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động hết hạn của người sử dụng lao động (2 bản chính).
- Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa (2 bản chính).
Cụ thể đối với trường hợp bà Trang hỏi, khi cơ quan quản lý công chức ra quyết định nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí đối với công chức thì áp dụng mẫu quyết định nghỉ hưu tại phụ lục II, ban hành kèm theo Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 của Chính phủ. Theo mẫu này, tên loại và trích yếu nội dung của văn bản là Quyết định về việc nghỉ hưu để hưởng chế độ BHXH.
Theo luật sư, nếu văn bản đã ban hành có tên loại và trích yếu nội dung là quyết định nghỉ việc hưởng chế độ BHXH, mà nội dung của văn bản đó đã ghi rõ họ tên người được nghỉ việc hưởng lương hưu hàng tháng; số sổ BHXH; ngày, tháng, năm sinh; chức vụ; đơn vị công tác; thời điểm được nghỉ việc hưởng chế độ BHXH (từ ngày, tháng, năm); nơi cư trú sau khi nghỉ việc; Hồ sơ hưởng lương hưu hàng tháng đã nộp đủ gồm: Sổ BHXH (1 bản chính), Quyết định nghỉ việc có nội dung nêu trên (2 bản chính) và Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa (2 bản chính), thì BHXH có thẩm quyền căn cứ vào hồ sơ và nội dung quyết định đã được cơ quan quản lý công chức ban hành để giải quyết chế độ BHXH, mà không cần thiết phải thay đổi trích yếu nội dung của quyết định đó. Bởi lẽ, trích yếu nội dung của quyết định là “nghỉ việc hưởng chế độ BHXH” hay “nghỉ hưu để hưởng chế độ BHXH” đều có nội dung như nhau là người lao động được người sử dụng lao động cho nghỉ việc để hưởng chế độ lương hưu hàng tháng do BHXH chi trả.
Tuy nhiên, cơ quan BHXH yêu cầu phải có quyết định nghỉ hưu thì mới giải quyết chế độ hưởng lương hưu hàng tháng cho công chức đó.
Theo UBND huyện, việc ra quyết định nghỉ việc là đúng, còn BHXH yêu cầu phải thay đổi quyết định nghỉ việc thành quyết định nghỉ hưu. Vì lý do này mà công chức đó vẫn chưa được nhận lương hưu. Bà Trang hỏi, vậy ý kiến của cơ quan nào là đúng?
Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội giải đáp thắc mắc của bà Trang như sau:
Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động được quy định tại Điều 51, Luật BHXH và hướng dẫn tại Điều 27, Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ như sau:
Người lao động đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với mức lương hưu của người đủ điều kiện (quy định tại Điều 50 Luật BHXH và Điều 26 Nghị định này) khi nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên.
Đối với trường hợp có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thì không kể tuổi đời.
Hồ sơ hưởng lương hưu hàng tháng
Căn cứ Điều 119 Luật BHXH, hồ sơ hưởng lương hưu hàng tháng đối với người lao động đang đóng BHXH bắt buộc, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà nam từ đủ 50 tuổi trở lên, nữ từ đủ 45 tuổi trở lên hoặc trường hợp không phụ thuộc vào tuổi đời do có đủ 15 năm làm nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại gửi cơ quan BHXH gồm:
- Sổ bảo hiểm xã hội (1 bản chính).
- Quyết định nghỉ việc hoặc bản chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động hết hạn của người sử dụng lao động (2 bản chính).
- Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa (2 bản chính).
Cụ thể đối với trường hợp bà Trang hỏi, khi cơ quan quản lý công chức ra quyết định nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí đối với công chức thì áp dụng mẫu quyết định nghỉ hưu tại phụ lục II, ban hành kèm theo Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 của Chính phủ. Theo mẫu này, tên loại và trích yếu nội dung của văn bản là Quyết định về việc nghỉ hưu để hưởng chế độ BHXH.
Theo luật sư, nếu văn bản đã ban hành có tên loại và trích yếu nội dung là quyết định nghỉ việc hưởng chế độ BHXH, mà nội dung của văn bản đó đã ghi rõ họ tên người được nghỉ việc hưởng lương hưu hàng tháng; số sổ BHXH; ngày, tháng, năm sinh; chức vụ; đơn vị công tác; thời điểm được nghỉ việc hưởng chế độ BHXH (từ ngày, tháng, năm); nơi cư trú sau khi nghỉ việc; Hồ sơ hưởng lương hưu hàng tháng đã nộp đủ gồm: Sổ BHXH (1 bản chính), Quyết định nghỉ việc có nội dung nêu trên (2 bản chính) và Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa (2 bản chính), thì BHXH có thẩm quyền căn cứ vào hồ sơ và nội dung quyết định đã được cơ quan quản lý công chức ban hành để giải quyết chế độ BHXH, mà không cần thiết phải thay đổi trích yếu nội dung của quyết định đó. Bởi lẽ, trích yếu nội dung của quyết định là “nghỉ việc hưởng chế độ BHXH” hay “nghỉ hưu để hưởng chế độ BHXH” đều có nội dung như nhau là người lao động được người sử dụng lao động cho nghỉ việc để hưởng chế độ lương hưu hàng tháng do BHXH chi trả.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Hưởng trợ cấp tuất hàng tháng có được hỗ trợ BHYT?
Ông Đoàn Văn Cán (huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau) năm nay 85 tuổi. Từ năm 2009, ông được hưởng chế độ trợ cấp tuất hàng tháng. Tuy nhiên, từ khi hưởng trợ cấp, ông không được cấp thẻ BHYT. Ông Cán hỏi, ông có thể mua BHYT tự nguyện không và cần liên hệ cơ quan nào?
Vấn đề ông Cán hỏi, ông Lê Văn Phúc, Phó Trưởng ban Ban Thực hiện chính sách BHYT, BHXH Việt Nam trả lời như sau:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 17, Khoản 1 Điều 18 Luật Người cao tuổi, người từ đủ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng thì được Nhà nước mua thẻ BHYT.
Ông Cán hiện đang được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng nên không thuộc đối tượng được Nhà nước hỗ trợ mua thẻ BHYT. Tuy nhiên, ông có thể đến cơ quan BHXH quận, huyện hoặc UBND xã, phường nơi cư trú để được hướng dẫn mua thẻ BHYT tự nguyện.
Vấn đề ông Cán hỏi, ông Lê Văn Phúc, Phó Trưởng ban Ban Thực hiện chính sách BHYT, BHXH Việt Nam trả lời như sau:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 17, Khoản 1 Điều 18 Luật Người cao tuổi, người từ đủ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng thì được Nhà nước mua thẻ BHYT.
Ông Cán hiện đang được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng nên không thuộc đối tượng được Nhà nước hỗ trợ mua thẻ BHYT. Tuy nhiên, ông có thể đến cơ quan BHXH quận, huyện hoặc UBND xã, phường nơi cư trú để được hướng dẫn mua thẻ BHYT tự nguyện.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Tin liên quan
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 13/10/2025
13/10/2025 09:43
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 10/10/2025
10/10/2025 17:15
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 08/10/2025
08/10/2025 10:55
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 06/10/2025
06/10/2025 09:42
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 03/10/2025
03/10/2025 09:24
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 02/10/2025
02/10/2025 16:24