Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 05/07/2012

Tin trong nước
VietnamPost ra dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế mới
Từ tháng 7/2012, VNQuickpost - dịch vụ chuyển phát nhanh đi quốc tế mới của VietnamPost sẽ được cung cấp tại các bưu cục, điểm giao dịch ở 7 Bưu điện tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng và Quảng Nam.
Lễ ra mắt dịch vụ chuyển phát nhanh đi quốc tế VNQuickpost của VietnamPost diễn ra ngày 4/7/2012.
Hôm nay (4/7/2012), Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam (VietnamPost) và hãng chuyển phát nhanh DHL Express đã chính thức ra mắt sản phẩm mới VNQuickpost, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế do VietnamPost cung cấp trên cơ sở hợp tác với DHL Express, đảm nhiệm chuyển phát hàng hóa, tài liệu cho các khách hàng từ Việt Nam kết nối tới 220 quốc gia và 12 vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
Là sản phẩm hợp tác giữa VietnamPost và DHL Express, dịch vụ chuyển phát nhanh VNQuickpost được kỳ vọng sẽ phát huy, khai thác được thế mạnh về hệ thống điểm giao dịch rộng khắp trong nước của VietnamPost cũng như ưu thế về chất lượng của mạng chuyển phát phủ rộng toàn cầu của DHL Express.
Phát biểu tại lễ ra mắt dịch vụ, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng khẳng định, việc khai trương dịch vụ VNQuickpost chắc chắn sẽ góp phần làm phong phú hơn các dịch vụ bưu chính tại Việt Nam, tạo điều kiện để các khách hàng ở Việt Nam có thêm nhiều lựa chọn đối với các dịch vụ bưu chính tiện ích, chất lượng. “Việc khai trương dịch vụ mới VNQuickpost cũng là minh chứng cho thành công, sự hợp tác ngày càng hiệu quả hơn giữa VietnamPost và DHL”, Thứ trưởng nói.
Ông Nguyễn Quốc Vinh - Phó Tổng giám đốc VietnamPost cho biết, dịch vụ mới VNQuickpost tiếp cận phân khúc khách hàng trung bình chưa được khai thác thông qua việc cung cấp các lựa chọn chuyển phát nhanh quốc tế tiết kiệm, tin cậy và nhanh chóng cho khách hàng của VietnamPost.
Cụ thể, dịch vụ VNQuickpost được định hướng thiết kế với chất lượng, giá cước nằm ở khoảng giữa so với dịch vụ chuyển phát nhanh EMS của Bưu chính Việt Nam và dịch vụ chuyển phát nhanh của DHL Express. Trong đó, thời gian toàn trình của dịch vụ VNQuickpost là từ 2 - 7 ngày, tùy theo từng địa điểm, khu vực trên thế giới mà khách hàng có nhu cầu chuyển phát hàng hóa, tài liệu tới. Ví dụ như, thời gian chuyển phát hàng hóa, tài liệu từ Việt Nam đi Mỹ của EMS là 4 ngày thì của VNQuickpost được rút ngắn hơn, còn 2 ngày. Còn về giá cước, VNQuickpost dự kiến sẽ có giá cước cao hơn khoảng 30% so với dịch vụ EMS nhưng thấp hơn khoảng 20% so với giá cước dịch vụ chuyển phát nhanh của DHL Express.
Bưu gửi sử dụng dịch vụ VNQuickpost do VietnamPost cung cấp sẽ được chuyển phát
trên mạng lưới quốc tế của DHL Express.
VớiVNQuickpost, VietnamPost nhắm tới phục vụ các đối tượng khách hàng tại các tỉnh, thành phố lớn, những nơi kinh tế phát triển, có dân cư đông đúc, tập trung nhiều khu công nghiệp… Việc cung cấp dịch vụ VNQuickpost sẽ được VietnamPost và đối tác DHL Express triển khai theo nhiều giai đoạn. Sau giai đoạn đầu triển khai cung cấp tại địa bàn 7 tỉnh, thành phố lớn là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương và Quảng Nam; ở giai đoạn 2, mạng lưới cung cấp dịch vụ VNQuickpost sẽ được mở rộng ra địa bàn các tỉnh, thành phố khác có tiềm năng.
Để sử dụng dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế chất lượng cao VNQuickpost của VietnamPost, bên cạnh việc đến trực tiếp các điểm giao dịch Bưu điện, bưu cục ở những địa bàn đã triển khai cung cấp dịch vụ, các khách hàng còn có thể gọi tới Call Center, đường dây nóng của Vietnampost và các Bưu điện tỉnh, thành phố để yêu cầu được phục vụ tại địa chỉ.
Đặc biệt, nhờ việc ứng dụng CNTT tối đa trong toàn bộ quy trình tác nghiệp, các khách hàng sử dụng dịch vụ VNQuickpost có thể dễ dàng theo dõi, định vị được hàng hóa, tài liệu của mình thông qua mạng truy tìm, định vị hàng hóa, bưu gửi của VietnamPost.
VINASAT - 2 chính thức cung cấp dịch vụ
Sáng 4/7 tại Hà Nội, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và nhà thầu sản xuất vệ tinh Lockheed Martin đã tổ chức Lễ bàn giao vệ tinh VINASAT-2, đánh dấu mốc VNPT chính thức quá trình vận hành, quản lý và kinh doanh vệ tinh VINASAT-2.
VTI sẽ điều khiển VINASAT-2
Sau khi được phóng thành công lên không gian vào lúc 5h13 phút ngày 16/5 (theo giờ Việt Nam), vệ tinh VINASAT-2 đã được đưa từ quỹ đạo chuyển đổi đến quỹ đạo địa tĩnh (cách trái đất gần 36.000km) và đến ngày 21/5, vệ tinh VINASAT-2 đã được định vị thành công tại vị trí quỹ đạo 131,8 độ Đông. Chỉ vài giờ sau khi rời tên lửa đẩy, Trung tâm điều khiển mặt đất đã nhận được tín hiệu thu - phát từ vệ tinh VINASAT-2.
Ông Phạm Long Trận - Chủ tịch Hội đồng thành viên VNPT cho biết, trong thời gian qua, các chuyên gia của Lockheed Martin đã tiến hành đo kiểm toàn bộ hệ thống vệ tinh để đảm bảo hoạt động ổn định của VINASAT-2 trước khi bàn giao cho VNPT. Trong suốt quá trình đo kiểm vệ tinh trên quỹ đạo, các cán bộ kỹ thuật của VNPT và chuyên gia tư vấn của Telesat Canada đã bám sát tiến trình đo thử của Lockheed Martin.
Chủ tịch Hội đồng thành viên VNPT Phạm Long Trận (phải) chính thức nhận bàn giao Vệ tinh VINASAT-2 từ đại diện Nhà thầu Lockheed Martin
Cho tới thời điểm này, quyền điều khiển vệ tinh đã chính thức được chuyển cho Công ty Viễn thông Quốc tế (VTI) thuộc VNPT - đơn vị chịu trách nhiệm quản lý, khai thác và kinh doanh các dịch vụ vệ tinh VINASAT thực hiện. Theo quy định của Hợp đồng, sau khi bàn giao vệ tinh, Lockheed Martin sẽ tiếp tục cử 2 chuyên gia đến hỗ trợ trực tiếp trong khoảng thời gian 3 tháng. Sau khi tiếp nhận bàn giao, ngay trong tháng 7/2012, VNPT sẽ chính thức cung cấp các dịch vụ từ VINASAT- 2
VINASAT-2 sống hơn 21 năm
Các thử nghiệm về điều khiển, công suất hoạt động, truyền phát tín hiệu đều cho thấy vệ tinh VINASAT-2 đảm bảo các thông số về kỹ thuật, chất lượng như cam kết trong Hợp đồng. Ngày 21/6 vừa qua, tại nhà máy của Lockheed Martin, các bên đã ký Biên bản phê chuẩn kết quả đo kiểm chi tiết vệ tinh trên quỹ đạo.
Vệ tinh VINASAT-2 sẽ có thời gian sống 15 -16 năm, tuy nhiên tại lễ bàn giao, ông Hoàng Minh Thống, Giám đốc Ban Quản lý dự án các công trình viễn thông của VNPT đã cho biết, VINASAT-2 sẽ có thời gian sống lên tới 21,3 năm.
Vệ tinh VINASAT-2 có công suất, trọng lượng lớn hơn, số bộ phát đáp nhiều hơn. Vinasat-2 có 24 bộ phát đáp trong khi VINASAT-1 chỉ có 20 bộ phát đáp. Vinasat-2 cũng đã được thiết kế với nhiều giải pháp kỹ thuật kết hợp với kết quả phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh sẽ có các vùng phủ linh hoạt mở rộng khả năng phục vụ nhu cầu khách hàng các nước trong khu vực.
Với dung lượng truyền dẫn tương đương 13.000 kênh thoại/Internet/truyền số liệu hoặc khoảng 150 kênh truyền hình, VINASAT-2 sẽ góp phần tăng cường hơn nữa năng lực hạ tầng mạng viễn thông của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu sử dụng vệ tinh của thị trường trong nước và khu vực.
Cùng với VINASAT-1, vệ tinh VINASAT-2 sẽ tạo thành một hệ thống vệ tinh có khả năng dự phòng về dung lượng và giảm thiểu rủi ro giữa các vệ tinh, củng cố an ninh, an toàn cho mạng viễn thông quốc gia. Đồng thời, VINASAT-2 cũng sẽ đem lại lợi ích chung cho cộng đồng, góp phần tăng cường khả năng khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên tần số quỹ đạo vệ tinh.
Để khai thác hiệu quả vệ tinh VINASAT-2, VNPT đã và đang xúc tiến mở rộng khách hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau như dầu khí, ngân hàng, tài chính; tập trung phục vụ các khách hàng có nhu cầu sử dụng thông tin liên lạc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, kể cả các khách hàng nước ngoài ở các thị trường Campuchia, Lào và Myanmar… Với năng lực và kinh nghiệm của VNPT trong việc khai thác, kinh doanh vệ tinh VINASAT-1, VNPT/VTI tin tưởng vệ tinh VINASAT-2 có thể thu hồi vốn đầu tư trong vòng 10 năm.
Người đã viết hàng nghìn bức thư và đi tìm liệt sĩ
Một ngày đầu tháng 5-2012, có một cựu chiến binh đến Trụ sở Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam, trao bản danh sách liệt sĩ của các Trung đoàn 44, 46 và 101 (Sư đoàn 1-Mặt trận Tây Nguyên). Hỏi chuyện ông, chúng tôi được biết ông là Nguyễn Duy Quyết, người đã viết hàng nghìn bức thư cung cấp thông tin về liệt sĩ gửi các cơ quan, đơn vị và gia đình liệt sĩ. Việc làm đầy tình nghĩa của ông đã giúp các gia đình liệt sĩ tìm được hơn 500 hài cốt liệt sĩ, có đầy đủ danh tính và đã được quy tập về các nghĩa trang liệt sĩ.
Ông sinh năm 1949 ở xã Bình Thành, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1966 khi đang học lớp 9 phổ thông (hệ 10 năm), ông khai tăng tuổi để được đi bộ đội. Đơn vị đầu tiên ông đến là Sư đoàn 1 - Mặt trận Tây Nguyên. Ông là lính trinh sát của sư đoàn. Gần 10 năm tham gia chiến đấu trên các chiến trường Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, nước bạn Cam-pu-chia rồi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Năm 1978, ông được điều về Vùng 5 hải quân, chiến đấu ở Mặt trận biên giới Tây Nam và Cam-pốt (Cam-pu-chia). Năm 1993, ông về nghỉ hưu từ Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên với quân hàm trung tá. Khi được hỏi cơ duyên nào thúc đẩy ông đi tìm mộ liệt sĩ, giọng ông trầm xuống: “Tôi có người anh trai là liệt sĩ Nguyễn Văn Cao, chiến sĩ Điện Biên. Hòa bình lập lại, anh tôi phục viên. Sau Tết Mậu Thân năm 1968, anh tôi làm đơn xin tái ngũ, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Năm 1972 anh tôi hy sinh, đến nay gia đình vẫn chưa tìm được nơi anh yên nghỉ. Vì vậy, tôi thấu hiểu nỗi đau mất mát của các gia đình liệt sĩ, nỗi day dứt khôn nguôi khi họ chưa tìm được nơi yên nghỉ của người thân. Nhiều khi gặp cha mẹ liệt sĩ cùng đơn vị, hỏi tôi: Anh có biết em nó nằm ở đâu để gia đình đi tìm? Lúc ấy tôi như chết lặng đi”.
Ông Quyết (giữa) trao đổi với các gia đình liệt sĩ. Ảnh: Quang Thanh.
Hơn 10 năm chiến đấu cùng đồng đội trên các chiến trường, nhiều lần ông trực tiếp chôn cất đồng đội hy sinh tại mặt trận. Đất nước đã hòa bình hơn ba mươi năm, không thể để đồng đội mình nằm mãi nơi rừng sâu, hay đồng bằng, sông nước được. Nỗi niềm đi tìm đồng đội cứ trăn trở, day dứt khôn nguôi trong lòng ông. Trong một lần gặp mặt cựu chiến binh Trung đoàn 101 (Quân khu 9), thăm lại chiến trường xưa và dự hội thảo về công tác tìm kiếm hài cốt liệt sĩ do Phòng Chính trị Bộ CHQS tỉnh An Giang tổ chức; ông bỗng nhớ lại tất cả những gì mình còn lưu giữ trong chiến tranh. Ông tâm sự: “Là người làm công tác quân lực, chính sách từ cấp tiểu đoàn đến cấp sư đoàn trong một thời gian dài đã tạo cho tôi có ý thức ghi chép và lưu trữ số liệu vào sổ sách. Cứ mỗi lần phải ghi vào sổ tên cán bộ, chiến sĩ hy sinh, quân số đơn vị thấp xuống là tim tôi lại nhói đau, cầm bút ghi mà những giọt nước mắt nhớ thương đồng đội nhỏ xuống làm nhòe cả trang sổ. Vì vậy, tôi cảm thấy có lỗi với đồng đội nếu không cùng gia đình đi tìm được họ về…”. Hỏi ông về quá trình tìm kiếm đồng đội, ông ngồi lặng đi một lát rồi kể tiếp: “Đầu tiên, tôi tìm lại tài liệu mà tôi còn giữ được, sau đó tôi đến Phòng Chính sách các Quân khu 5, 7, 9 và đơn vị để lấy tư liệu. Điều quan trọng là phải tìm và đối chiếu từng danh sách liệt sĩ với bản sơ đồ mộ chí từng trận đánh, của từng đơn vị, tiếp đó đi khảo sát tại các địa điểm theo sơ đồ mai táng ở các vùng chiến sự năm xưa. Cái khó là trước đây quy định khi mai táng liệt sĩ chỉ ghi họ, tên, phiên hiệu đơn vị, không ghi quê quán nên khi đối chiếu xác định danh tính rất khó khăn. Hơn nữa, năm tháng chiến tranh qua đi, dấu tích địa hình nơi chôn cất liệt sĩ đã thay đổi quá nhiều, vì thế, việc tìm kiếm gặp vô vàn khó khăn. Có những nơi tôi phải đi lại rất nhiều lần để tìm hiểu và hỏi thăm người dân địa phương rồi mường tượng ra nơi chiến trường xưa như thế nào. Sau đó, rồi mới cung cấp các thông tin cho các đội quy tập liệt sĩ của các Bộ CHQS các tỉnh để tìm kiếm”.
Có những nơi ông viết thư cho gia đình, thân nhân liệt sĩ, nhưng cũng có người, cha mẹ liệt sĩ không còn, anh em đi làm ăn xa nên thư thất lạc cũng không ít. Có trường hợp quê quán thay đổi, ông phải gọi qua tổng đài 1080 nhờ chỉ dẫn, qua anh em bè bạn, người thân để dò hỏi. Có những hôm ông thức thâu đêm để tra cứu, đối chiếu giữa quê quán ghi trong hồ sơ với quê quán hiện tại. Bởi lẽ ngay cả hồ sơ trước đây ghi chép cũng có trường hợp sai chi tiết… Nhiều khi, gửi mãi không thấy gia đình liệt sĩ hồi âm, mặc dù ông đã ghi cả địa chỉ, số điện thoại di động, nhà riêng cho họ, ông không nản lòng lại tiếp tục gửi thư lần 2, lần 3… Ông bảo, những lúc như thế, ông cảm giác như các liệt sĩ-những người đồng đội-ùa cả về bên ông để cùng nhau tìm kiếm. Phần lớn các gia đình sau khi nhận được thư ông gửi, họ đều giãi bày tình cảm với ông, có người sau mấy chục năm tìm kiếm không thấy nay nhận được thông tin kèm theo sơ đồ chỉ dẫn cụ thể do ông gửi họ vô cùng cảm ơn về việc làm đầy nhân nghĩa và đậm tình đồng đội của ông. Người ở xa thì gọi điện, gửi thư, người ở gần đến nhà đề nghị ông đi tìm cùng họ. Không ít người do hoàn cảnh khó khăn, nên việc tìm kiếm không thể một sớm một chiều, ông đã chia sẻ với họ, giới thiệu họ cho các đội quy tập hài cốt liệt sĩ để tìm kiếm. Ông bảo: “Nhiều gia đình yêu cầu tôi đưa đi tận nơi, nhưng có nơi tôi đi được, có nơi do bận không đi được thì tôi vẫn dõi theo họ đến khi có kết quả”.
Có những kỷ niệm mà ông nhớ mãi, ấy là đầu năm 1973 đơn vị ông được bổ sung hai chiến sĩ đều quê ở Hải Hậu (Nam Định) tên là Trần Văn Hoan và Trần Văn Nhật, cả hai đều sinh năm 1953. Tháng 9-1973, trong một trận chiến đấu không cân sức giữa ta và địch, cả hai anh đều anh dũng hy sinh. Đơn vị đem họ về mai táng tại chùa Sôm (phum Tà Ô, Ki-ni-vông, tỉnh Tà-keo, Cam-pu-chia). Ông là người trực tiếp chôn cất họ. Khi mai táng, ông bảo anh em: “Hoan và Nhật mất vừa tròn 20 tuổi, ta lấy mốc cố định 20m tính từ tam cấp chùa trở ra phía vườn chùa cho dễ nhớ. Sau này ai có liên lạc được với gia đình thì nhớ vậy để dễ tìm”. Khi ấy không có hòm ván, đơn vị tìm được hai cánh cửa nhà dân và để hai anh trên tấm ván. Anh Trần Văn Hoan là người theo đạo thiên chúa, nên khi mai táng, ông và các đồng đội đặt cả cây thánh giá lên ngực anh.
Năm 2006, sau khi liên lạc được với gia đình, ông cùng gia đình và Đội quy tập K93 sang tìm hài cốt của hai anh. Ngôi chùa trước đây không còn nữa, trước mắt ông chỉ còn một đống gạch vụn đổ nát, hỏi ra ông mới biết, lính Pôn Pốt đã tàn phá ngôi chùa này vào giữa năm 1978. Nhớ lại con số 20 trước đây, ông đề nghị anh em đội quy tập tìm dấu tích bậc tam cấp và đào theo sơ đồ ông vẽ. Khi thấy hài cốt của Trần Văn Hoan, cây thánh giá vẫn còn nguyên vẹn. Ngoài cây thánh giá, còn có tấm ảnh một người con gái có mái tóc dài rất đẹp, tiếc là khi đưa lên mặt đất không được bao lâu thì tấm ảnh bị mờ hết, ông đề nghị gia đình đem cây thánh giá về lưu giữ làm kỷ niệm.
Một kỷ niệm nữa là năm 2010, khi tìm 14 liệt sĩ hy sinh tại cao điểm 201 (núi Hòn Chông, thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang). Sau khi viết thư cung cấp thông tin về họ tên, ngày tháng nhập ngũ, đơn vị nhập ngũ, quê quán, trường hợp hy sinh, nơi hy sinh và địa điểm mai táng liệt sĩ cho các gia đình, ông hẹn họ cùng đội quy tập đi vào tận nơi. Mấy chục năm sau hòa bình, cứ ngỡ đồng đội mình đã được yên nghỉ ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhưng đến nơi, cảnh vật chẳng còn như xưa, có nơi cỏ mọc um tùm đến vắng lặng, nỗi buồn nặng trĩu lòng ông. Ông đề nghị đội quy tập báo cáo chính quyền địa phương và mời nhân dân đến uống nước chè Thái Nguyên đem từ Bắc vào, rồi nhờ mọi người ai biết mộ chí các liệt sĩ ở đâu thì báo giúp. Rất nhiều ý kiến đưa ra được bà con, cô bác địa phương bàn bạc, thảo luận, một người dân đã dẫn đội quy tập và ông cùng 14 gia đình đến tận nơi. Mười bốn hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy theo đúng số thứ tự trong sơ đồ và số thứ tự danh sách liệt sĩ. Khỏi phải nói niềm cảm động của các gia đình như thế nào khi họ tìm thấy hài cốt của các liệt sĩ và chuyển về mai táng tại nghĩa trang quê hương.
Trong trận đánh ở đồi Bãi Ớt, (thuộc xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang), có 9 liệt sĩ hy sinh. Ông viết thư cho các gia đình và cung cấp danh sách cho Đội quy tập K92, Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang, nhưng có một gia đình không liên lạc được. Cuối cùng, ông cùng 8 gia đình vào tìm. Khi đào lên chỉ tìm thấy 8 hài cốt, còn một hài cốt của gia đình không liên lạc được thì lại không tìm thấy. Tám gia đình trên đã đề nghị ông thông tin giúp cho Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam gửi đi giám định ADN, kết quả tìm được danh tính cả 8 liệt sĩ. Sáng 11-5 vừa qua, Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam đã tổ chức trao cho các gia đình trong niềm cảm động khôn xiết.
Hiện nay, ông nghỉ hưu ở số nhà 246, phố Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, tham gia sinh hoạt hội cựu chiến binh, tham gia cấp ủy và là Phó bí thư chi bộ tổ dân phố. Hằng ngày ông vẫn viết và gửi thư, đến nỗi nhân viên bưu điện ở gần nhà đã quen mặt và coi ông như người trong nhà. Tiền mua tem và phong bì, tiền đi lại để tìm hài cốt các liệt sĩ đều từ đồng lương hưu ít ỏi hằng tháng của ông. Chúng tôi được ông đưa cho xem hàng trăm lá thư của các gia đình liệt sĩ gửi tới cảm ơn và thể hiện sự quý trọng trước việc làm đầy tình nghĩa của ông. Những bức thư ấy được ông nâng niu, giữ gìn như những món quà vô giá. Ghi nhận trước việc làm của ông, Hội Cựu chiến binh tỉnh Thái Nguyên đã tặng ông giấy khen, Tỉnh ủy Thái Nguyên tặng ông bằng khen, đặc biệt năm 2010 ông được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen về những việc làm nặng tình đồng đội ấy.
Chia tay chúng tôi, ông tâm sự: “Vợ tôi là giáo viên tiểu học đã nghỉ hưu, bà ấy và các cháu khi biết việc tôi làm thì luôn động viên, giúp đỡ tôi. Bà ấy luôn cáng đáng việc nhà cho tôi đi tìm đồng đội. Với những người đã ngã xuống, chúng ta còn nợ họ nhiều lắm! Ngày nào tôi còn khỏe thì còn viết thư cho các gia đình liệt sĩ và còn đi tìm đồng đội”.
Các điểm bưu điện văn hóa xã: Tìm hướng hoạt động hiệu quả (tiếp theo)
Tìm hướng đi thích hợp cho điểm BĐVHX, đáp ứng yêu cầu chương trình xây dựng nông thôn mới luôn là trăn trở của nhiều địa phương và ngành Bưu điện. Nhiều địa phương và cán bộ ngành Bưu điện, nhân viên làm việc tại các điểm BĐVHX hiến kế để tìm ra một mô hình chuyển đổi hợp lý.
Đa dạng hóa dịch vụ
Ông Nguyễn Thành Quang, Giám đốc Bưu điện huyện An Lão cho rằng: “Từ khi triển khai xây dựng các điểm BĐVHX, thành công lớn nhất của hệ thống này là giúp ngành thông tin và truyền thông, bưu điện phổ cập các dịch vụ bưu chính, viễn thông, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển chênh lệch về hưởng thụ thông tin và tiến bộ xã hội giữa các địa phương, nhất là những địa phương xa trung tâm thành phố. Điểm BĐVHX giúp người dân tiếp cận với chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là một kênh thông tin, tuyên truyền pháp luật. Do đó vẫn cần thiết duy trì hoạt động của các điểm BĐVHX”.
Nhưng hiện nay, nhất là thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, đòi hỏi hoạt động các điểm BĐVHX phải phù hợp với tình hình thực tế. Điều này rất cần sự điều chỉnh của Nhà nước, các doanh nghiệp để có những thay đổi thích hợp. Trước tiên nâng cấp cơ sở vật chất của các điểm BĐVHX thành nơi thực sự thu hút người dân quan tâm, tham gia các hoạt động và sử dụng dịch vụ. Các dịch vụ, sản phẩm phục vụ đa dạng hơn, trong đó chú trọng đến hoạt động thông tin, tuyên truyền, trang bị sách báo, nhất là với những loại sách báo người dân quan tâm như Báo Hải Phòng, Báo Nhân Dân, sách, truyện giải trí dành cho trẻ em, người cao tuổi. Đồng thời, tiếp tục củng cố và làm mới cơ sở hạ tầng điểm BĐVHX hiện có nhằm nâng cao khả năng phục vụ các nhu cầu thiết yếu về thông tin và truyền thôngở khu vực nông thôn. Phát huy lợi thế về địa điểm của các điểm BĐVHX để xây dựng, phát triển hạ tầng mạng lưới viễn thôngở khu vực nông thôn tới những nơi có tiềm năng kinh doanhđể góp phần tăng doanh thucả hệ thống.
Theo ông Đoàn Đắc Thắng, Phó trưởng phòng Phòng Văn hóa thông tin huyện Kiến Thụy, có thể nâng cấp điểm BĐVHX thành một trung tâm văn hóa cộng đồng, tách riêng dịch vụ bưu chính viễn thông. Tại điểm BĐVHX, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp để có thể hoạt động như một thiết chế văn hóa cơ sở, theo hướng tận dụng điểm BĐVHX làm nơi sinh hoạt cộng đồng; cung cấp thông tin, tài liệu hướng dẫn các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho người dân. Có thể xây dựng phương án di dời, chuyển đổi điểm BĐVHX ra khỏi khuôn viên UBND xã, thị trấn để tổ chức hoạt động tốt hơn. Cũng không nhất thiết phải xây dựng mỗi xã một điểm BĐVH mà trên cơ sở rà soát thực tế, có thể xây dựng điểm BĐVH cho cụm xã. Cần bổ sung thêm những chức năng mới cho các điểm BĐVHX, để có thể đáp ứng nhu cầu của người dân và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Liên kết đa ngành
Bà Phan Thị Vân, Phó giám đốc Bưu điện huyện Kiến Thụy cho rằng, bên cạnh việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, đa dạng hóa dịch vụ, cần chú ý đến vấn đề con người. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, tính năng động của mỗi cá nhân, nhân viên sẽ làm nên hiệu quả công việc. Nhà nước cần có sự điều chỉnh chính sách đào tạo, điều kiện làm việc, thù lao hợp lý nhằm động viên, khuyến khích người lao động làm việc tại các điểm BĐVHX... Phần lớn nhân viên điểm BĐVHX mong được ngành xem xét nâng thu nhập ít nhất cũng được bằng lương tối thiểu theo quy định và được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Bưu điện huyện nhiều lần đề nghị cấp trên hỗ trợ kinh phí trả lương cho nhân viên, tăng lượng đầu sách báo tại các BĐVHX... nhưng chưa được chấp thuận, vì danh mục chi ngân sách sự nghiệp nhà nước chưa có mục dành cho bưu chính - viễn thông. Nhà nước xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp và có chương trình kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân viên điểm BĐVHX, nhất là các kiến thức về kinh doanh, tiếp thị và ứng dụng tin học, đáp ứng yêu cầu triển khai các loại hình dịch vụ mới, nâng cao chất lượng phục vụ tại điểm BĐVHX.
Để các điểm BĐVHX hoạt động hiệu quả, đáp ứng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới cần sự đột phá và ngành Bưu điện sẽ là chủ công xây dựng những chiến lược phát triển cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Nhưng “để đa dạng hóa dịch vụ, nâng cao chất lượng các điểm BĐVHX đáp ứng tiêu chí nông thôn mới, không thể chỉ một ngành Bưu chính -viễn thông có thể làm được mà cần có sự liên kết đa ngành”- ông Nguyễn Thành Quang, Giám đốc Bưu điện huyện An Lão khẳng định. Bên cạnh việc duy trì và nâng cao chất lượng các dịch vụ bưu chính công ích tại các điểm phục vụ, ngành Bưu điện phát triển thêm nhiều dịch vụ kinh doanh khác như: dịch vụ trả lương hưu, dịch vụ thanh toán bảo hiểm, dịch vụ tiết kiệm bưu điện… Đồng thời, tăng cường phối hợp với ngành Giáo dục, Tư pháp để làm phong phú thêm các đầu sách báo, tư liệu tham khảo tại các điểm BĐVHX, thu hút và đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân.
Ngành Bưu điện cần phối hợp với các bộ, ngành tạo sự liên kết ngang nhằm xây dựng những chương trình phối hợp, tài trợ cơ sở vật chất và kinh phí thường xuyên cho hoạt động của điểm BĐVHX; xây dựng những trang Web, nội dungphù hợp với đặc điểm vùng miền để phục vụ nhu cầu tra cứu tìm hiểu và học hỏi của mọi người dân ở khu vực nông thôn. Ngành Bưu điện hợp tác với các tổ chức cá nhân triển khai thí điểm mô hình khoán hoặc cho thuê dài hạn nhiều điểm trong một khu vực nhằm khai thác tối đa sự tham gia của quần chúng nhân dân trong tổ chức hoạt động kinh doanhvà phục vụ của điểm BĐVHX.