Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 11/10/2013

CĐ Xây dựng VN: Tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác nữ công 2013
Đầu tháng 10 CĐ Xây dựng VN đã tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác nữ công 2013 cho hơn 110 nữ CB CĐ trong ngành. Nội dung tập huấn gồm: Hoạt động nữ công theo NQ ĐH XI CĐVN; những điểm mới về chính sách pháp luật với LĐ nữ; chuyên đề văn hóa ứng xử của phụ nữ thời hiện đại... Đ.Cường (CĐ Xây dựng VN)
LĐLĐ tỉnh Bến Tre, trong năm 2013, tiếp tục mua, phát hành 214 tờ báo Lao Động/ngày đến 167 CĐCS xã, phường, thị trấn và 50 DN có đông CNLĐ; duy trì 5 điểm đọc báo tập trung tại 2 KCN Giao Long, An Hiệp. LĐLĐ tỉnh còn phối hợp với báo Đồng Khởi thực hiện chuyên trang “Lao động và CĐ”, với Đài PTTH Bến Tre thực hiện chuyên mục “Công nhân - CĐ”... L.N.G
CĐ Bưu điện VN: Vừa tổ chức hội nghị học tập, quán triệt NQ ĐH XI CĐVN và triển khai NQ ĐH XIV CĐBĐ VN. Dự và chỉ đạo hội nghị, Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Nguyễn Văn Ngàng đánh giá cao việc CĐ BĐVN triển khai NQ bằng hình thức trực tuyến qua cầu truyền hình VNPT và đề nghị CĐ thực hiện hiệu quả để NQ ĐH XI CĐVN đi vào cuộc sống. T.H
LĐLĐ tỉnh Thái Nguyên: Từ 6-8.10 đã phối hợp với Sở VHTTDL tỉnh tổ chức giải bóng chuyền năm 2013 với sự tham gia của 72 VĐV là CNVCLĐ đến từ 6 đội tuyển. Đội bóng chuyền Cty CP nhiệt điện Cao Ngạn đoạt chức vô địch. Bắc Việt
LĐLĐ TP.Hà Nội: Trong quý III, phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân 13 dự án với 2,49 tỉ đồng từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm cho 169 CNVCLĐ vay. Nhờ đó, NLĐ đã tạo được việc làm, tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống. T.E.A
CĐ Giấy và Bột giấy VN vừa tổ chức hội thi tuyên truyền về ATVSLĐ - PCCN năm 2013. 58 tuyên truyền viên của 10 đội đã thể hiện các phần thi tự giới thiệu, trả lời câu hỏi và tiểu phẩm, tập trung vào những quy định của pháp luật, quy định của TCty về ATVSLĐ - PCCN. Đức Minh
LĐLĐ tỉnh Bình Thuận: Tiến hành nghiệm thu và bàn giao 2 nhà “mái ấm CĐ” cho CNVCLĐ có hoàn cảnh khó khăn về chỗ ở thuộc LĐLĐ huyện Bắc Bình. Đây là một trong những hoạt động xã hội được CĐ tỉnh đẩy mạnh trong năm 2013. S.T
CĐ Công nghiệp Tàu thủy: Trong quý III đã tổ chức kiểm tra 7 DN về chấp hành Điều lệ CĐVN và tài chính CĐ. Qua kiểm tra cho thấy, đa số các DN thực hiện đúng quy định, hướng dẫn của pháp luật và Tổng LĐLĐVN. V.L
LĐLĐ tỉnh Cao Bằng: Tổ chức 3 hội nghị tuyên truyền về công tác DS-KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho hơn 200 CNLĐ thuộc Cty CP khoáng sản Tây Giang và Cty xây dựng gốm Nam phong tham gia. Hoạt động này giúp NLĐ bổ sung thêm những kiến thức cần thiết cho bản thân và gia đình. Đ.V.T
LĐLĐ tỉnh Đắc Lắc đã phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông CA tỉnh tổ chức tập huấn tuyên truyền phổ biến pháp luật về ATGT và pháp luật LĐ tại 8 đơn vị, DN, thu hút gần 1.000 CNLĐ tham gia.H.T.T
Trong hai ngày 8, 9.10, CĐ Caosu Việt Nam đã tổ chức tập huấn kỹ năng viết báo đợt 1 cho gần 60 cán bộ CĐ ở các Cty thuộc khu vực TPHCM và miền Đông Nam bộ. Tham gia lớp học, các học viên được trang bị những kiến thức cơ bản và thực tập kỹ năng viết tin, bài về gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt... do các nhà báo của Báo Lao Động, Tạp chí Caosu hướng dẫn. Đăng Hải - Nam Dương
LĐLĐ tỉnh Hưng Yên: Từ 9-10.10 tổ chức hội nghị học tập, quán triệt NQ ĐH XI CĐVN, với sự tham dự của các ủy viên BCH, thường vụ LĐLĐ tỉnh, chủ tịch, phó chủ tịch LĐLĐ các huyện, TP, CĐ ngành, CĐ các KCN. Hội nghị truyền đạt những nội dung cơ bản của NQ ĐH XI CĐVN; Điều lệ CĐVN (sửa đổi, bổ sung) và 4 chương trình hành động của ĐH XI CĐVN... Thu Nguyệt (LĐLĐ tỉnh Hưng Yên)
LĐLĐ tỉnh Trà Vinh vừa kết thúc khảo sát tình hình DN và LĐ tại 323 DN trên địa bàn tỉnh chưa thành lập CĐ. Kết qua, chỉ có 13 DN đủ điều kiện thành lập CĐ, có 310 DN không đủ đều kiện thành lập, chiếm 96%. Đáng chú ý, trong số này có 57 DN đã giải thể, 44 ngừng hoạt động... Th.Dũng
LĐLĐ tỉnh Bến Tre, trong năm 2013, tiếp tục mua, phát hành 214 tờ báo Lao Động/ngày đến 167 CĐCS xã, phường, thị trấn và 50 DN có đông CNLĐ; duy trì 5 điểm đọc báo tập trung tại 2 KCN Giao Long, An Hiệp. LĐLĐ tỉnh còn phối hợp với báo Đồng Khởi thực hiện chuyên trang “Lao động và CĐ”, với Đài PTTH Bến Tre thực hiện chuyên mục “Công nhân - CĐ”... L.N.G
CĐ Bưu điện VN: Vừa tổ chức hội nghị học tập, quán triệt NQ ĐH XI CĐVN và triển khai NQ ĐH XIV CĐBĐ VN. Dự và chỉ đạo hội nghị, Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Nguyễn Văn Ngàng đánh giá cao việc CĐ BĐVN triển khai NQ bằng hình thức trực tuyến qua cầu truyền hình VNPT và đề nghị CĐ thực hiện hiệu quả để NQ ĐH XI CĐVN đi vào cuộc sống. T.H
LĐLĐ tỉnh Thái Nguyên: Từ 6-8.10 đã phối hợp với Sở VHTTDL tỉnh tổ chức giải bóng chuyền năm 2013 với sự tham gia của 72 VĐV là CNVCLĐ đến từ 6 đội tuyển. Đội bóng chuyền Cty CP nhiệt điện Cao Ngạn đoạt chức vô địch. Bắc Việt
LĐLĐ TP.Hà Nội: Trong quý III, phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân 13 dự án với 2,49 tỉ đồng từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm cho 169 CNVCLĐ vay. Nhờ đó, NLĐ đã tạo được việc làm, tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống. T.E.A
CĐ Giấy và Bột giấy VN vừa tổ chức hội thi tuyên truyền về ATVSLĐ - PCCN năm 2013. 58 tuyên truyền viên của 10 đội đã thể hiện các phần thi tự giới thiệu, trả lời câu hỏi và tiểu phẩm, tập trung vào những quy định của pháp luật, quy định của TCty về ATVSLĐ - PCCN. Đức Minh
LĐLĐ tỉnh Bình Thuận: Tiến hành nghiệm thu và bàn giao 2 nhà “mái ấm CĐ” cho CNVCLĐ có hoàn cảnh khó khăn về chỗ ở thuộc LĐLĐ huyện Bắc Bình. Đây là một trong những hoạt động xã hội được CĐ tỉnh đẩy mạnh trong năm 2013. S.T
CĐ Công nghiệp Tàu thủy: Trong quý III đã tổ chức kiểm tra 7 DN về chấp hành Điều lệ CĐVN và tài chính CĐ. Qua kiểm tra cho thấy, đa số các DN thực hiện đúng quy định, hướng dẫn của pháp luật và Tổng LĐLĐVN. V.L
LĐLĐ tỉnh Cao Bằng: Tổ chức 3 hội nghị tuyên truyền về công tác DS-KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho hơn 200 CNLĐ thuộc Cty CP khoáng sản Tây Giang và Cty xây dựng gốm Nam phong tham gia. Hoạt động này giúp NLĐ bổ sung thêm những kiến thức cần thiết cho bản thân và gia đình. Đ.V.T
LĐLĐ tỉnh Đắc Lắc đã phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông CA tỉnh tổ chức tập huấn tuyên truyền phổ biến pháp luật về ATGT và pháp luật LĐ tại 8 đơn vị, DN, thu hút gần 1.000 CNLĐ tham gia.H.T.T
Trong hai ngày 8, 9.10, CĐ Caosu Việt Nam đã tổ chức tập huấn kỹ năng viết báo đợt 1 cho gần 60 cán bộ CĐ ở các Cty thuộc khu vực TPHCM và miền Đông Nam bộ. Tham gia lớp học, các học viên được trang bị những kiến thức cơ bản và thực tập kỹ năng viết tin, bài về gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt... do các nhà báo của Báo Lao Động, Tạp chí Caosu hướng dẫn. Đăng Hải - Nam Dương
LĐLĐ tỉnh Hưng Yên: Từ 9-10.10 tổ chức hội nghị học tập, quán triệt NQ ĐH XI CĐVN, với sự tham dự của các ủy viên BCH, thường vụ LĐLĐ tỉnh, chủ tịch, phó chủ tịch LĐLĐ các huyện, TP, CĐ ngành, CĐ các KCN. Hội nghị truyền đạt những nội dung cơ bản của NQ ĐH XI CĐVN; Điều lệ CĐVN (sửa đổi, bổ sung) và 4 chương trình hành động của ĐH XI CĐVN... Thu Nguyệt (LĐLĐ tỉnh Hưng Yên)
LĐLĐ tỉnh Trà Vinh vừa kết thúc khảo sát tình hình DN và LĐ tại 323 DN trên địa bàn tỉnh chưa thành lập CĐ. Kết qua, chỉ có 13 DN đủ điều kiện thành lập CĐ, có 310 DN không đủ đều kiện thành lập, chiếm 96%. Đáng chú ý, trong số này có 57 DN đã giải thể, 44 ngừng hoạt động... Th.Dũng
Theo Lao động
Bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo Vụ Hợp tác quốc tế và Văn phòng Bộ
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son trao Quyết định bổ nhiệm Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Hợp tác quốc tế cho ông Phan Thảo Nguyên
Sáng nay, ngày 10/10/2013, tại trụ sở Bộ (18 Nguyễn Du, Hà Nội) Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức Lễ trao Quyết định bổ nhiệm ông Phạm Mạnh Lâm giữ chức Chánh Văn phòng Bộ và ông Phan Thảo Nguyên giữ chức Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Hợp tác quốc tế Bộ Thông tin và Truyền thông từ ngày 10/10/2013.
Tới dự và trao Quyết định bổ nhiệm có đồng chí Nguyễn Bắc Son - Ủy viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; đại diện lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ; đại diện lãnh đạo Tập đoàn VNPT, cùng cán bộ, công chức Văn phòng Bộ, Vụ Hợp tác quốc tế.
Tới dự và trao Quyết định bổ nhiệm có đồng chí Nguyễn Bắc Son - Ủy viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; đại diện lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ; đại diện lãnh đạo Tập đoàn VNPT, cùng cán bộ, công chức Văn phòng Bộ, Vụ Hợp tác quốc tế.

Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son phát biểu tại buổi Lễ
Ngày 10/10/2013, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ký Quyết định số 1293/QĐ-BTTTT về việc tiếp nhận và bổ nhiệm có thời hạn ông Phan Thảo Nguyên, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Quan hệ công chúng - Tập đoàn VNPT giữ chức Phó Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế Bộ Thông tin và Truyền thông; và Quyết định số 1295/QĐ-BTTTT về việc giao nhiệm vụ cho ông Phan Thảo Nguyên, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế phụ trách Vụ Hợp tác quốc tế từ ngày 10/10/2013.
Phát biểu tại buổi Lễ trao Quyết định, thay mặt lãnh đạo Bộ, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son nhấn mạnh, hai đồng chí đã được lãnh đạo Bộ tín nhiệm giao trọng trách hôm nay sẽ nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy trí tuệ, năng lực công tác và cùng tập thể đoàn kết một lòng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, Bộ trưởng mong rằng, hai đồng chí sẽ tiếp tục phấn đấu không ngừng để hoàn thiện mình và cùng đơn vị đoàn kết, phối hợp, giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo Bộ giao phó; xứng đáng với sự kỳ vọng và tin yêu của nhân dân đối với ngành Thông tin và Truyền thông; góp phần thúc đẩy ngành Thông tin và Truyền thông phát triển và hội nhập quốc tế trước yêu cầu mới.
Phát biểu tại buổi Lễ trao Quyết định, thay mặt lãnh đạo Bộ, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son nhấn mạnh, hai đồng chí đã được lãnh đạo Bộ tín nhiệm giao trọng trách hôm nay sẽ nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy trí tuệ, năng lực công tác và cùng tập thể đoàn kết một lòng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, Bộ trưởng mong rằng, hai đồng chí sẽ tiếp tục phấn đấu không ngừng để hoàn thiện mình và cùng đơn vị đoàn kết, phối hợp, giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo Bộ giao phó; xứng đáng với sự kỳ vọng và tin yêu của nhân dân đối với ngành Thông tin và Truyền thông; góp phần thúc đẩy ngành Thông tin và Truyền thông phát triển và hội nhập quốc tế trước yêu cầu mới.

Đại diện lãnh đạo Tập đoàn VNPT phát biểu chúc mừng ông Phan Thảo Nguyên tại buổi Lễ
Cũng tại buổi Lễ, ông Phan Thảo Nguyên thay mặt các đồng chí mới được bổ nhiệm bày tỏ niềm vinh dự và trân trọng cảm ơn lãnh đạo Bộ đã tin tưởng và giao trọng trách cho cá nhân mình. Ông hứa sẽ cố gắng nỗ lực phấn đấu với tinh thần trách nhiệm cao nhất cùng tập thể đơn vị đoàn kết, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành tốt những công việc được giao, tiếp nối truyền thống vững mạnh của đơn vị. Ông Phan Thảo Nguyên mong muốn Bộ trưởng và các đồng chí lãnh đạo Bộ, các đơn vị chức năng luôn quan tâm, ủng hộ, phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện giúp đỡ ông hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin của lãnh đạo Bộ.
Sáng cùng ngày, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son đã trao Quyết định bổ nhiệm đồng chí Phạm Mạnh Lâm, Quyền Chánh Văn phòng Bộ giữ chức Chánh Văn phòng Bộ kể từ ngày 10/10/2013.
Sáng cùng ngày, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son đã trao Quyết định bổ nhiệm đồng chí Phạm Mạnh Lâm, Quyền Chánh Văn phòng Bộ giữ chức Chánh Văn phòng Bộ kể từ ngày 10/10/2013.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
Hội nghị sơ kết giai đoạn II, bước 1 của Dự án “ Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam”

Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng trao bằng khen cho các cá nhân,
tập thể đạt thành tích xuất sắc.
Sáng ngày 10/10/2013, tại Hà Nội, Ban Quản lý dự án Bill & Melinda Gates đã tổ chức Hội nghị sơ kết giai đoạn II, bước 1 của Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam”. Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng đã tới dự hội nghị. Tham dự có đại diện Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch; một số đơn vị chức năng thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông; Tổng công ty Bưu điện Việt Nam; một số tỉnh, thành phố đã triển khai dự án này.
Theo báo cáo của đại diện Ban quản lý dự án BMGF, thời gian thực hiện của Dự án là 5 năm từ tháng 7/2011 – 6/2016, trong đó có 40 tỉnh triển khai, được thực hiện theo 3 bước. Bước 1 triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Nằm trong kế hoạch của Dự án, bước 1 của Dự án được bắt đầu triển khai trong 15 tháng từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013 tại 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và 3 trung tâm đào tạo tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, căn cứ vào đề xuất của ủy ban nhân dân các tỉnh và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phê duyệt 637 điểm đủ điều kiện thực hiện trong bước 1, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của 3 thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được Dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Đại diện Ban quản lý cũng đã chỉ ra những kết quả nổi bật của Dự án trong giai đoạn vừa qua như sau: về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, nằm trong số ít dự án quốc gia triển khai đạt kết quả và tiến độ. Trong đó, từ 1/6/2012 – 30/9/2013 đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh. Bước 1 với tổng thời lượng truy nhập Internet là 2.028.191 giờ; doanh thu các điểm bưu điện văn hóa xã từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2013 là 1.105.424.000 đồng, bình quân là 427.000 đồng/điểm/tháng; triển khai mới được 634 điểm truy cập tại 12 tỉnh, 15 trung tâm đào tạo, lắp đặt thêm 4180 máy tính, 950 cán bộ các cấp được tập huấn phục vụ cho gần 200.000 lượt người sử dụng trong đó riêng 4 tháng (1/5 – 30/9/2013) đã lên tới 100.000 lượt sử dụng máy tính và hiện nay, số lượng đang có xu hướng tăng lên.
Số lượng người truy nhập sử dụng máy tính của dự án cũng đã tăng lên đáng kể: số người tham gia mạng xã hội chiếm 81,40%, chơi trò chơi 80,87%, dùng cho học thuật 78,41%, thông tin về nhà nước, sản xuất, bệnh dịch 62,29%, thông tin về sức khỏe 51,43%, thông tin về văn hóa, thể thao, chính trị 33,25% và thông tin cơ hội việc làm là 20,80%. Trong đó, nam vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ trong số người sử dụng: nam (56%), nữ (44%). Về thành phần người sử dụng, đông nhất là nhóm học sinh, sinh viên và cán bộ, nông dân chiếm tỷ lệ khiêm tốn, số lương người dân tộc thiểu số tham gia cũng khá thấp, chỉ chiếm 20%.
Về việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, trong thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nâng cấp 3 phòng đào tạo tại Hà Nội (tại trụ sở của VNPost), Văn phòng đại diện của Bộ tại TP. HCM và Văn phòng Đại diện tại Đà Nẵng đáp ứng điều kiện tiếp nhận của Dự án. VNPost cũng đã ủng hộ và hỗ trợ Dự án qua việc cấp trung bình 20 – 30 triệu đồng/điểm BĐ-VHX để chuẩn bị cơ sở hạ tầng đạt tiêu chí Dự án.
Ban quản lý cũng đã phối hợp với các đơn vị liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Công An, Crown Agents, FPT để đo kiểm, kiểm tra an ninh, lắp đặt thiết bị, nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng 11 máy chủ (server), 4.180 máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị phụ trợ đã được nối mạng Internet băng thông rộng và lắp đặt cho 637 điểm TVCC, BĐ-VHX tại 12 tỉnh (bao gồm 3 thư viện tỉnh của Dự án thí điểm) và 3 Trung tâm đào tạo vùng. Để hỗ trợ công tác quản lý, Dự án cũng đã thiết kế phần mềm quan sát (observatory) để hỗ trợ lắp đặt, vận hành, quản lý và thu thập các số liệu cần thiết để đánh giá Dự án. Phần mềm này đã được đưa vào sử dụng và đã được nhà tài trợ đánh giá cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Dự án “ Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập internet công cộng tại Việt Nam” trong giai đoạn vừa qua còn gặp một số khó khăn tại các địa phương thực hiện. Một số cán bộ tại các điểm sử dụng còn ỷ lại, thụ động, không phát huy hết những lợi thế và nhiệm vụ chính trị của hệ thống, không tận dụng những lợi thế về thương mại, dịch vụ do dự án đem lại. Nhận thức của lãnh đạo của các cơ quan quản lý thư viện công cộng và điểm bưu điện văn hóa xã chưa được nâng cao, chưa làm chủ và tận dụng hệ thống giám sát, đánh giá làm cho công tác thu thập số liệu chậm, bị động…
Tại hội nghị đại diện các Bộ, Ngành, VNPOST và các Sở thực hiện Dự án trong giai đoạn II, bước 1 đã có nhiều ý kiến đóng góp và chia sẻ những kinh nghiệm tại địa phương để trong giai đoạn tới việc thực hiện, triển khai Dự án đem lại nhiều kết quả thiết thực, đảm bảo tới được người có nhu cầu…
Theo báo cáo của đại diện Ban quản lý dự án BMGF, thời gian thực hiện của Dự án là 5 năm từ tháng 7/2011 – 6/2016, trong đó có 40 tỉnh triển khai, được thực hiện theo 3 bước. Bước 1 triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Nằm trong kế hoạch của Dự án, bước 1 của Dự án được bắt đầu triển khai trong 15 tháng từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013 tại 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và 3 trung tâm đào tạo tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, căn cứ vào đề xuất của ủy ban nhân dân các tỉnh và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phê duyệt 637 điểm đủ điều kiện thực hiện trong bước 1, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của 3 thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được Dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Đại diện Ban quản lý cũng đã chỉ ra những kết quả nổi bật của Dự án trong giai đoạn vừa qua như sau: về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, nằm trong số ít dự án quốc gia triển khai đạt kết quả và tiến độ. Trong đó, từ 1/6/2012 – 30/9/2013 đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh. Bước 1 với tổng thời lượng truy nhập Internet là 2.028.191 giờ; doanh thu các điểm bưu điện văn hóa xã từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2013 là 1.105.424.000 đồng, bình quân là 427.000 đồng/điểm/tháng; triển khai mới được 634 điểm truy cập tại 12 tỉnh, 15 trung tâm đào tạo, lắp đặt thêm 4180 máy tính, 950 cán bộ các cấp được tập huấn phục vụ cho gần 200.000 lượt người sử dụng trong đó riêng 4 tháng (1/5 – 30/9/2013) đã lên tới 100.000 lượt sử dụng máy tính và hiện nay, số lượng đang có xu hướng tăng lên.
Số lượng người truy nhập sử dụng máy tính của dự án cũng đã tăng lên đáng kể: số người tham gia mạng xã hội chiếm 81,40%, chơi trò chơi 80,87%, dùng cho học thuật 78,41%, thông tin về nhà nước, sản xuất, bệnh dịch 62,29%, thông tin về sức khỏe 51,43%, thông tin về văn hóa, thể thao, chính trị 33,25% và thông tin cơ hội việc làm là 20,80%. Trong đó, nam vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ trong số người sử dụng: nam (56%), nữ (44%). Về thành phần người sử dụng, đông nhất là nhóm học sinh, sinh viên và cán bộ, nông dân chiếm tỷ lệ khiêm tốn, số lương người dân tộc thiểu số tham gia cũng khá thấp, chỉ chiếm 20%.
Về việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, trong thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nâng cấp 3 phòng đào tạo tại Hà Nội (tại trụ sở của VNPost), Văn phòng đại diện của Bộ tại TP. HCM và Văn phòng Đại diện tại Đà Nẵng đáp ứng điều kiện tiếp nhận của Dự án. VNPost cũng đã ủng hộ và hỗ trợ Dự án qua việc cấp trung bình 20 – 30 triệu đồng/điểm BĐ-VHX để chuẩn bị cơ sở hạ tầng đạt tiêu chí Dự án.
Ban quản lý cũng đã phối hợp với các đơn vị liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Công An, Crown Agents, FPT để đo kiểm, kiểm tra an ninh, lắp đặt thiết bị, nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng 11 máy chủ (server), 4.180 máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị phụ trợ đã được nối mạng Internet băng thông rộng và lắp đặt cho 637 điểm TVCC, BĐ-VHX tại 12 tỉnh (bao gồm 3 thư viện tỉnh của Dự án thí điểm) và 3 Trung tâm đào tạo vùng. Để hỗ trợ công tác quản lý, Dự án cũng đã thiết kế phần mềm quan sát (observatory) để hỗ trợ lắp đặt, vận hành, quản lý và thu thập các số liệu cần thiết để đánh giá Dự án. Phần mềm này đã được đưa vào sử dụng và đã được nhà tài trợ đánh giá cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Dự án “ Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập internet công cộng tại Việt Nam” trong giai đoạn vừa qua còn gặp một số khó khăn tại các địa phương thực hiện. Một số cán bộ tại các điểm sử dụng còn ỷ lại, thụ động, không phát huy hết những lợi thế và nhiệm vụ chính trị của hệ thống, không tận dụng những lợi thế về thương mại, dịch vụ do dự án đem lại. Nhận thức của lãnh đạo của các cơ quan quản lý thư viện công cộng và điểm bưu điện văn hóa xã chưa được nâng cao, chưa làm chủ và tận dụng hệ thống giám sát, đánh giá làm cho công tác thu thập số liệu chậm, bị động…
Tại hội nghị đại diện các Bộ, Ngành, VNPOST và các Sở thực hiện Dự án trong giai đoạn II, bước 1 đã có nhiều ý kiến đóng góp và chia sẻ những kinh nghiệm tại địa phương để trong giai đoạn tới việc thực hiện, triển khai Dự án đem lại nhiều kết quả thiết thực, đảm bảo tới được người có nhu cầu…

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng đã biểu dương kết quả mà Dự án đã đạt được trong thời gian vừa qua. Thứ trưởng cũng chỉ ra năm giá trị quan trọng mà Ban quản lý cần lưu ý trong quá trình thực hiện Dự án: Vai trò của cơ sở; chú trọng quan tâm tới khó khăn của người lao động, có các biện pháp hỗ trợ phù hợp cho cán bộ, nhân viên ở các điểm bưu điện văn hóa xã, thư viện công cộng; Việc đầu tư trang thiết bị, hạ tầng rất quan trọng, cần có cơ chế, chính sách lâu dài; Tăng cường đào tạo, thúc đẩy mạnh mẽ hợp phần nội dung để trang bị cho Dự án; Tăng cường công tác truyền thông, vận động rộng rãi tới người dân…
Nhân dịp này, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cũng đã trao bằng khen và phần thưởng cho các cá nhân, tập thể đạt thành tích xuất sắc trong quá trình triển khai và thực hiện Dự án.
Nhân dịp này, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cũng đã trao bằng khen và phần thưởng cho các cá nhân, tập thể đạt thành tích xuất sắc trong quá trình triển khai và thực hiện Dự án.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
Yên Bái: Điều tra thống kê dịch vụ bưu chính công ích
Thực hiện phương án điều tra thống kê dịch vụ bưu chính công ích năm 2013 (Ban hành kèm theo Quyết định số 310/QĐ-BTTTT ngày 28/03/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông), vừa qua, Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Yên Bái đã tiến hành điều tra thống kê dịch vụ Bưu chính công ích trên địa bàn tỉnh, thời gian diễn ra liên tục trong 5 ngày (từ ngày 9/9/2013 đến 13/9/2013). Các đơn vị được lựa chọn điều tra gồm: Trung tâm khai thác tỉnh, Bưu điện huyện Văn Yên, Bưu cục giao dịch cấp 2 Văn Yên, bưu cục giao dịch cấp 3 Trái Hút huyện Văn Yên thuộc Bưu điện tỉnh Yên Bái.
Kết quả điều tra thống kê cho thấy, số thư bình quân trên 1 kg thư của tỉnh Yên Bái đạt 71,5 thư (sấp xỉ bằng 71,5 cái trên 1 kg thư cơ bản trong nước). Giá cước bình quân mỗi thư là 2.210 đồng. Theo đó, qua đối chiếu các số liệu báo cáo thống kê đối với các loại báo công ích gồm Nhân dân, Quân đội nhân dân, báo Yên Bái, thì tỉ lệ chênh lệch là 1 (tức không chênh lệch nhiều giữa thực tế so với báo cáo).
Tuy nhiên, qua ghi nhận từ đợt khảo sát tình hình thực tế, sản lượng và giá cước bình quân một cái thư trên địa bàn còn quá thấp. Yên Bái là tỉnh miền núi, có địa bàn rộng, sản lượng và giá cước thấp là một khó khăn trong cung ứng và đảm bảo chất lượng phát đối với dịch vụ bưu chính công ích. Mặt khác, những năm gần đây báo mạng phát triển nên việc đặt báo công ích trên địa bàn giảm đi đáng kể, từ đó dẫn đến doanh thu từ dịch vụ bưu chính công ích mà doanh nghiệp thu về rất thấp, đây cũng khó khăn đối với vậy doanh nghiệp công ích bưu chính trên địa bàn tỉnh.
Kết quả điều tra thống kê cho thấy, số thư bình quân trên 1 kg thư của tỉnh Yên Bái đạt 71,5 thư (sấp xỉ bằng 71,5 cái trên 1 kg thư cơ bản trong nước). Giá cước bình quân mỗi thư là 2.210 đồng. Theo đó, qua đối chiếu các số liệu báo cáo thống kê đối với các loại báo công ích gồm Nhân dân, Quân đội nhân dân, báo Yên Bái, thì tỉ lệ chênh lệch là 1 (tức không chênh lệch nhiều giữa thực tế so với báo cáo).
Tuy nhiên, qua ghi nhận từ đợt khảo sát tình hình thực tế, sản lượng và giá cước bình quân một cái thư trên địa bàn còn quá thấp. Yên Bái là tỉnh miền núi, có địa bàn rộng, sản lượng và giá cước thấp là một khó khăn trong cung ứng và đảm bảo chất lượng phát đối với dịch vụ bưu chính công ích. Mặt khác, những năm gần đây báo mạng phát triển nên việc đặt báo công ích trên địa bàn giảm đi đáng kể, từ đó dẫn đến doanh thu từ dịch vụ bưu chính công ích mà doanh nghiệp thu về rất thấp, đây cũng khó khăn đối với vậy doanh nghiệp công ích bưu chính trên địa bàn tỉnh.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
Nâng cao khả năng sử dụng máy tính tại 12 tỉnh, thành
Sau 15 tháng triển khai giai đoạn II, bước 1 của Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam”, cả nước đã có 637 điểm thuộc 12 tỉnh đủ điều kiện thực hiện Dự án này.
Ông Phan Hữu Phong, Giám đốc Ban QLDA cho biết, theo kế hoạch, bước 1 của Dự án được triển khai trong 15 tháng, từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013 tại 12 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và 3 trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM.
Ban QLDA đã phối hợp với các đơn vị liên quan đo kiểm, kiểm tra an ninh, lắp đặt thiết bị, nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng 11 máy chủ, 4.180 máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị phụ trợ đã được nối mạng Internet băng thông rộng và lắp đặt cho 637 điểm đủ điều kiện thực hiện, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng.
Về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp từ Trung ương đến địa phương. Đến nay, hệ thống đã phục vụ gần 200.000 lượt người sử dụng và đang có xu hướng tăng.
Về hiệu quả xã hội, dự án đã góp phần nâng cao năng lực phục vụ và cách thức cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet; hỗ trợ người dân nghèo, nhóm thiệt thòi… có cơ hội được tiếp cận hiệu quả với công nghệ thông tin, từ đó cải thiện được cuộc sống.
Bên cạnh đó, phần lớn các nội dung thông tin người dân cần đều có mức độ đáp ứng tốt, nhất là nội dung thông tin về trao đổi trực tuyến. Những ứng dụng được cung cấp phổ biến trên Internet hiện nay như đọc tin tức, tham gia các diễn đàn, sử dụng các dịch vụ trực tuyến, điện thoại qua Internet… bước đầu được người dân khu vực nông thôn chấp nhận sử dụng.
Tuy nhiên, ông Phan Hữu Phong cũng cho biết một số khó khăn khi triển khai dự án như: Hầu hết các điểm tham gia dự án đều ở khu vực vùng sâu, vùng xa, nhu cầu sử dụng dịch vụ ít nên không hiệu quả; nhân viên công tác tại điểm bưu điện văn hóa xã ít; ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ. Đặc biệt, nhiều đơn vị chưa chủ động tuyên truyền, quảng bá nên có nơi người dân chưa biết đến dịch vụ Internet công cộng.
Trước những khó khăn trên, đại diện các đơn vị thực hiện dự án đã đề xuất một số giải pháp để tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo của dự án hiệu quả hơn. Đó là UBND các địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ truyền thông về dự án thông qua phương tiện truyền thanh xã, các buổi họp, sinh hoạt cộng đồng để người dân biết và tìm hiểu thông tin.
Ban QLDA cần có biện pháp tích cực trong việc hỗ trợ thu nhập và công tác an toàn, an ninh cho nhân viên làm việc tại điểm bưu điện văn hóa xã. Đồng thời, dự án cần có chi phí dự phòng cho các rủi ro như mất cắp, lũ lụt, thiên tai làm ảnh hưởng đến tài sản dự án cũng như chi phí cho việc đánh giá lại tài sản khi bàn giao.
Đại diện các đơn vị cũng đề nghị Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tiếp tục hỗ trợ, đảm bảo đường truyền cho các điểm dự án.
Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” được thực hiện trong 5 năm từ 7/2011-6/2016 tại 40 tỉnh, thành. Dự án chia làm 3 bước. Bước 1 được triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 triển khai tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Ông Phan Hữu Phong, Giám đốc Ban QLDA cho biết, theo kế hoạch, bước 1 của Dự án được triển khai trong 15 tháng, từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013 tại 12 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và 3 trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM.
Ban QLDA đã phối hợp với các đơn vị liên quan đo kiểm, kiểm tra an ninh, lắp đặt thiết bị, nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng 11 máy chủ, 4.180 máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị phụ trợ đã được nối mạng Internet băng thông rộng và lắp đặt cho 637 điểm đủ điều kiện thực hiện, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng.
Về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp từ Trung ương đến địa phương. Đến nay, hệ thống đã phục vụ gần 200.000 lượt người sử dụng và đang có xu hướng tăng.
Về hiệu quả xã hội, dự án đã góp phần nâng cao năng lực phục vụ và cách thức cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet; hỗ trợ người dân nghèo, nhóm thiệt thòi… có cơ hội được tiếp cận hiệu quả với công nghệ thông tin, từ đó cải thiện được cuộc sống.
Bên cạnh đó, phần lớn các nội dung thông tin người dân cần đều có mức độ đáp ứng tốt, nhất là nội dung thông tin về trao đổi trực tuyến. Những ứng dụng được cung cấp phổ biến trên Internet hiện nay như đọc tin tức, tham gia các diễn đàn, sử dụng các dịch vụ trực tuyến, điện thoại qua Internet… bước đầu được người dân khu vực nông thôn chấp nhận sử dụng.
Tuy nhiên, ông Phan Hữu Phong cũng cho biết một số khó khăn khi triển khai dự án như: Hầu hết các điểm tham gia dự án đều ở khu vực vùng sâu, vùng xa, nhu cầu sử dụng dịch vụ ít nên không hiệu quả; nhân viên công tác tại điểm bưu điện văn hóa xã ít; ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ. Đặc biệt, nhiều đơn vị chưa chủ động tuyên truyền, quảng bá nên có nơi người dân chưa biết đến dịch vụ Internet công cộng.
Trước những khó khăn trên, đại diện các đơn vị thực hiện dự án đã đề xuất một số giải pháp để tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo của dự án hiệu quả hơn. Đó là UBND các địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ truyền thông về dự án thông qua phương tiện truyền thanh xã, các buổi họp, sinh hoạt cộng đồng để người dân biết và tìm hiểu thông tin.
Ban QLDA cần có biện pháp tích cực trong việc hỗ trợ thu nhập và công tác an toàn, an ninh cho nhân viên làm việc tại điểm bưu điện văn hóa xã. Đồng thời, dự án cần có chi phí dự phòng cho các rủi ro như mất cắp, lũ lụt, thiên tai làm ảnh hưởng đến tài sản dự án cũng như chi phí cho việc đánh giá lại tài sản khi bàn giao.
Đại diện các đơn vị cũng đề nghị Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tiếp tục hỗ trợ, đảm bảo đường truyền cho các điểm dự án.
Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” được thực hiện trong 5 năm từ 7/2011-6/2016 tại 40 tỉnh, thành. Dự án chia làm 3 bước. Bước 1 được triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 triển khai tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Tuyên Quang tổ chức Hội chợ Công Thương 2013
Theo tin từ Sở Công Thương tỉnh Tuyên Quang, Hội chợ Công Thương Tuyên Quang 2013 được tổ chức từ ngày 16 đến 22/10 tại Quảng trường Nguyễn Tất Thành, thành phố Tuyên Quang.
Hội chợ Công Thương Tuyên Quang năm 2013 có quy mô khoảng 200 gian hàng của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và thương nhân tham gia.
Các mặt hàng tham dự hội chợ gồm hàng tiêu dùng phục vụ đời sống như dệt may, da giày, đồ gia dụng; các loại hàng hóa nông sản, đặc sản các vùng miền, địa phương; máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu, hóa chất; vật liệu xây dựng và trang trí nội thất; hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử, điện lạnh, tin học, bưu chính - viễn thông, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí...
Hội chợ Công Thương Tuyên Quang năm 2013 do Sở Công Thương và Công ty TNHH Tổ chức hội chợ văn hóa du lịch quốc tế (ECT) phối hợp tổ chức, với mục đích tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", đẩy mạnh xúc tiến đầu tư thương mại, tạo cơ hội để các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh quảng bá sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm và mở rộng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp trong cả nước.
Hội chợ Công Thương Tuyên Quang năm 2013 có quy mô khoảng 200 gian hàng của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và thương nhân tham gia.
Các mặt hàng tham dự hội chợ gồm hàng tiêu dùng phục vụ đời sống như dệt may, da giày, đồ gia dụng; các loại hàng hóa nông sản, đặc sản các vùng miền, địa phương; máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu, hóa chất; vật liệu xây dựng và trang trí nội thất; hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử, điện lạnh, tin học, bưu chính - viễn thông, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí...
Hội chợ Công Thương Tuyên Quang năm 2013 do Sở Công Thương và Công ty TNHH Tổ chức hội chợ văn hóa du lịch quốc tế (ECT) phối hợp tổ chức, với mục đích tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", đẩy mạnh xúc tiến đầu tư thương mại, tạo cơ hội để các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh quảng bá sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm và mở rộng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp trong cả nước.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Dự án BMGF-VN: Hơn 200.000 lượt người truy nhập Internet
Theo thống kê từ hệ thống phần mềm quan sát của dự án BMGF-VN, từ 1/6/2012 đến hết tháng 9/2013, đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh triển khai bước 1, với tổng thời lượng truy nhập Internet là trên 2 triệu giờ.
Hôm nay (ngày 10/10/2013), tại Hà Nội, đã diễn ra lễ sơ kết giai đoạn 2 - bước 1 dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại VN” (BMGF-VN). Theo Phan Hữu Phong - Giám đốc Ban quản lý dự án BMGF-VN, trong 15 tháng triển khai bước 1 của giai đoạn 2 dự án, từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013, tại địa bàn 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng, Ban quản lý dự án đã phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn thành các nội dung công việc đảm bảo đúng tiến độ đã đề ra.
Cụ thể, đã triển khai lắp đặt, đưa vào sử dụng 11 máy chủ, 4.180 bộ máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị đi kèm và đường truyền Internet băng rộng tại 637 BĐVHX, TVCC ở 12 tỉnh cùng 3 trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM; thiết kế phần mềm quan sát (Observatory) hỗ trợ công tác vận hành, quản lý và thu thập các số liệu cần thiết để đánh giá dự án; mở 51 lớp đào tạo cho khoảng 1.000 học viên là cán bộ quản ly các cấp, cán bộ chuyên môn tại các BĐVHX và TVCC của 12 tỉnh; tổ chức 2.100 sự kiện truyền thông gồm “Ngày hội Internet”, “Internet với phụ nữ”, “Internet với thanh niên” tại 700 điểm thuộc 12 tỉnh bước 1 và 3 tỉnh đã tham gia giai đoạn thí điểm (2008-2010), thu hút khoảng 85.000 người tham dự; tổ chức cuộc thi viết “Máy tính cho cộng đồng thay đổi cuộc sống” với hàng trăm bài dự thi từ các đối tượng khác nhau như học sinh, cán bộ, người cao tuổi, người khuyết tật từ nhiều tỉnh, thành trong cả nước…
Hôm nay (ngày 10/10/2013), tại Hà Nội, đã diễn ra lễ sơ kết giai đoạn 2 - bước 1 dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại VN” (BMGF-VN). Theo Phan Hữu Phong - Giám đốc Ban quản lý dự án BMGF-VN, trong 15 tháng triển khai bước 1 của giai đoạn 2 dự án, từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013, tại địa bàn 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng, Ban quản lý dự án đã phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn thành các nội dung công việc đảm bảo đúng tiến độ đã đề ra.
Cụ thể, đã triển khai lắp đặt, đưa vào sử dụng 11 máy chủ, 4.180 bộ máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị đi kèm và đường truyền Internet băng rộng tại 637 BĐVHX, TVCC ở 12 tỉnh cùng 3 trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM; thiết kế phần mềm quan sát (Observatory) hỗ trợ công tác vận hành, quản lý và thu thập các số liệu cần thiết để đánh giá dự án; mở 51 lớp đào tạo cho khoảng 1.000 học viên là cán bộ quản ly các cấp, cán bộ chuyên môn tại các BĐVHX và TVCC của 12 tỉnh; tổ chức 2.100 sự kiện truyền thông gồm “Ngày hội Internet”, “Internet với phụ nữ”, “Internet với thanh niên” tại 700 điểm thuộc 12 tỉnh bước 1 và 3 tỉnh đã tham gia giai đoạn thí điểm (2008-2010), thu hút khoảng 85.000 người tham dự; tổ chức cuộc thi viết “Máy tính cho cộng đồng thay đổi cuộc sống” với hàng trăm bài dự thi từ các đối tượng khác nhau như học sinh, cán bộ, người cao tuổi, người khuyết tật từ nhiều tỉnh, thành trong cả nước…

Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng (bên trái) trao thưởng cho các đơn vị triển khai tốt Dự án BMGF-VN trong giai đoạn 2 - bước 1.
Đáng chú ý, trong báo cáo đánh giá giữa kỳ dự án BMGF-VN tại 12 tỉnh bước 1 của đơn vị tư vấn độc lập là Công ty CP Nghiên cứu và phân tích Vietsurvey, ông Nguyễn Đức Nhật - GĐ Công ty này nhận định, về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo đúng kế hoạch, nằm trong số ít các dự án quốc gia triển khai đạt kết quả và tiến độ. Đồng thời, đây cũng là dự án có diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp, từ trung ương đến các địa phương.
“Quan trọng hơn cả là dự án đã thực sự đi vào phục vụ người dân. Tính từ tháng 9/2012 đến nay hệ thống đã phục vụ khoảng 200.000 lượt người, trong đó tính riêng 4 tháng gần đây số lượt người sử dụng máy tính tại các điểm truy nhập Internet công cộng tại 12 tỉnh triển khai bước 1 rất cao, khoảng 100.000 lượt người. Đáng mừng là, số người sử dụng máy tính tại các điểm dự án đang tiếp tục có xu hướng tăng mạnh”, ông Nguyễn Đức Nhật cho hay.
Tuy nhiên, cũng theo ông Nhật, bên cạnh những thách thức như: số lượng người sử dụng làm sao phải tăng cao hơn nữa; sự tăng trưởng giữa các tỉnh không đồng đều; làm sao để tăng hiệu suất sử dụng máy tính tại các điểm truy nhập; phải làm sao để hiểu và cập nhật nhu cầu của người sử dụng…, dự án cũng gặp phải thách thức trong công tác tuyên truyền vận động. Cụ thể là, cán bộ tại điểm ở nhiều nơi còn ỷ lại, thụ động, không phát huy hết những lợi thế và nhiệm vụ chính trị của hệ thống, không tận dụng được những lợi thế về thương mại, dịch vụ do dự án đem lại.
Phát biểu tại lễ sơ kết, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng cho biết, nhờ sự nỗ lực rất lớn của các bên liên quan, dự án BMGF-VN đã đi được 1/3 chặng đường. Kết quả hết sức khả quan của dự án BMGF-VN là một “cú hích” quan trọng đối với sự phát triển trong thời gian tới của hệ thống điểm BĐVHX cũng như là hệ thống thư viện trên toàn quốc. “Mong muốn lớn nhất đối với dự án BMGF-VN là phải làm sao để dự án phát triển bền vững, kết quả của dự án tiếp tục được phát huy trong giai đoạn sau khi dự án đã kết thúc”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cũng đề nghị các đơn vị tham gia quản lý, vận hành và triển khai dự án BMGF-VN đặc biệt lưu ý đến các vấn đề như: vai trò của cơ sở, của địa phương tham gia triển khai dự án; chế độ đãi ngộ, thù lao của người lao động, các cán bộ trực tiếp phục vụ tại các điểm BĐVHX và TVCC; quan tâm đến việc đảm bảo hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ triển khai hợp phần nội dung nhằm cung cấp cho người dân tại các điểm truy cập Internet công cộng thêm nhiều nội dung hữu ích, phù hợp; đồng thời cần quan tâm và làm tốt hơn nữa công tác truyền thông vận động.
Có tổng kinh phí hơn 50,5 triệu USD trong đó gần 30 triệu USD do Quỹ Bill & Melinda Gate tài trợ, dự án BMGF-VN được thực hiện trong 5 năm (2011-2016), dự kiến thiết lập 1.900 điểm truy nhập Internet công cộng tại 1.900 điểm Bưu điện văn hóa xã (BĐVHX) và thư viện công cộng (TVCC) trên địa bàn 40 tỉnh khó khăn của Việt Nam. Theo kế hoạch, dự án được triển khai theo 3 giai đoạn, trong đó giai đoạn 2 (giai đoạn triển khai-PV) được thực hiện dần theo 3 bước, với bước 1 tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 mở rộng tiếp tại 12 tỉnh. Mục tiêu của dự án này là nâng năng lực phục vụ của điểm BĐVHX và TVCC với việc cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet, hỗ trợ người dân nghèo, nhóm thiệt thòi và nhóm sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội được tiếp cận bình đẳng, hiệu quả và bền vững với CNTT và được hưởng những lợi về kinh tế, xã hội.
“Quan trọng hơn cả là dự án đã thực sự đi vào phục vụ người dân. Tính từ tháng 9/2012 đến nay hệ thống đã phục vụ khoảng 200.000 lượt người, trong đó tính riêng 4 tháng gần đây số lượt người sử dụng máy tính tại các điểm truy nhập Internet công cộng tại 12 tỉnh triển khai bước 1 rất cao, khoảng 100.000 lượt người. Đáng mừng là, số người sử dụng máy tính tại các điểm dự án đang tiếp tục có xu hướng tăng mạnh”, ông Nguyễn Đức Nhật cho hay.
Tuy nhiên, cũng theo ông Nhật, bên cạnh những thách thức như: số lượng người sử dụng làm sao phải tăng cao hơn nữa; sự tăng trưởng giữa các tỉnh không đồng đều; làm sao để tăng hiệu suất sử dụng máy tính tại các điểm truy nhập; phải làm sao để hiểu và cập nhật nhu cầu của người sử dụng…, dự án cũng gặp phải thách thức trong công tác tuyên truyền vận động. Cụ thể là, cán bộ tại điểm ở nhiều nơi còn ỷ lại, thụ động, không phát huy hết những lợi thế và nhiệm vụ chính trị của hệ thống, không tận dụng được những lợi thế về thương mại, dịch vụ do dự án đem lại.
Phát biểu tại lễ sơ kết, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng cho biết, nhờ sự nỗ lực rất lớn của các bên liên quan, dự án BMGF-VN đã đi được 1/3 chặng đường. Kết quả hết sức khả quan của dự án BMGF-VN là một “cú hích” quan trọng đối với sự phát triển trong thời gian tới của hệ thống điểm BĐVHX cũng như là hệ thống thư viện trên toàn quốc. “Mong muốn lớn nhất đối với dự án BMGF-VN là phải làm sao để dự án phát triển bền vững, kết quả của dự án tiếp tục được phát huy trong giai đoạn sau khi dự án đã kết thúc”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cũng đề nghị các đơn vị tham gia quản lý, vận hành và triển khai dự án BMGF-VN đặc biệt lưu ý đến các vấn đề như: vai trò của cơ sở, của địa phương tham gia triển khai dự án; chế độ đãi ngộ, thù lao của người lao động, các cán bộ trực tiếp phục vụ tại các điểm BĐVHX và TVCC; quan tâm đến việc đảm bảo hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ triển khai hợp phần nội dung nhằm cung cấp cho người dân tại các điểm truy cập Internet công cộng thêm nhiều nội dung hữu ích, phù hợp; đồng thời cần quan tâm và làm tốt hơn nữa công tác truyền thông vận động.
Có tổng kinh phí hơn 50,5 triệu USD trong đó gần 30 triệu USD do Quỹ Bill & Melinda Gate tài trợ, dự án BMGF-VN được thực hiện trong 5 năm (2011-2016), dự kiến thiết lập 1.900 điểm truy nhập Internet công cộng tại 1.900 điểm Bưu điện văn hóa xã (BĐVHX) và thư viện công cộng (TVCC) trên địa bàn 40 tỉnh khó khăn của Việt Nam. Theo kế hoạch, dự án được triển khai theo 3 giai đoạn, trong đó giai đoạn 2 (giai đoạn triển khai-PV) được thực hiện dần theo 3 bước, với bước 1 tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 mở rộng tiếp tại 12 tỉnh. Mục tiêu của dự án này là nâng năng lực phục vụ của điểm BĐVHX và TVCC với việc cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet, hỗ trợ người dân nghèo, nhóm thiệt thòi và nhóm sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội được tiếp cận bình đẳng, hiệu quả và bền vững với CNTT và được hưởng những lợi về kinh tế, xã hội.
Theo ICTnews
Người dân vào mạng xã hội còn cao tại các điểm truy nhập Internet
Sáng nay 10/10, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) đã tổ chức sơ kết Giai đoạn II - bước 1 Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam”.
Thời gian thực hiện của Dự án là 5 năm từ tháng 7/2011 - 6/2016 tại 40 tỉnh được thực hiện theo 3 bước. Bước 1 triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Theo đúng kế hoạch Dự án, Bước 1 bắt đầu triển khai trong 15 tháng từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013 tại 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng và 3 trung tâm đào tạo tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP. HCM.
Căn cứ vào đề xuất của UBND các tỉnh và VNPost, Bộ TT&TT đã phê duyệt 637 điểm đủ điều kiện thực hiện trong Bước 1, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm BĐ-VHX và 3 trung tâm đào tạo vùng. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của 3 thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được Dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Thời gian thực hiện của Dự án là 5 năm từ tháng 7/2011 - 6/2016 tại 40 tỉnh được thực hiện theo 3 bước. Bước 1 triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Theo đúng kế hoạch Dự án, Bước 1 bắt đầu triển khai trong 15 tháng từ tháng 4/2012 đến tháng 6/2013 tại 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắc Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng và 3 trung tâm đào tạo tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP. HCM.
Căn cứ vào đề xuất của UBND các tỉnh và VNPost, Bộ TT&TT đã phê duyệt 637 điểm đủ điều kiện thực hiện trong Bước 1, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm BĐ-VHX và 3 trung tâm đào tạo vùng. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của 3 thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được Dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.

Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng trao các phần thưởng cho các tỉnh Hà Giang, Bình Phước, Sóc Trăng là các tỉnh có lượng truy cập Internet cao nhất
Tổng kết chung về kết quả đạt được của Dự án bước 1, Giám đốc Ban quản lý dự án Bill&Melinda Gates (BMGF), ông Phan Hữu Phong cho biết về cơ bản, Ban quản lý dự án đã hoàn thành được các nội dung công việc đã được quy định tại văn kiện dự án và kế hoạch đã được phê duyệt.
“Theo số liệu thống kê từ hệ thống Observatory, từ 1/6/2012 - 30/9/2013 đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh Bước 1 với tổng thời lượng truy nhập Internet là 2.028.191 giờ. Doanh thu các điểm Bưu điện - Văn hóa xã (BĐ-VHX): Từ tháng 1 - 8/2013 là 1.105.424.000 đồng, bình quân là 427.000 đồng/điểm/tháng”, ông Phong cho biết thêm.
Theo đánh của Công ty Cổ phần nghiên cứu và phân tích Vietsurvey, về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, nằm trong số ít dự án quốc gia triển khai đạt kết quả và tiến độ. Diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp từ Trung ương (Bộ TT&TT, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch VHTTDL), địa phương.
“Theo số liệu thống kê từ hệ thống Observatory, từ 1/6/2012 - 30/9/2013 đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh Bước 1 với tổng thời lượng truy nhập Internet là 2.028.191 giờ. Doanh thu các điểm Bưu điện - Văn hóa xã (BĐ-VHX): Từ tháng 1 - 8/2013 là 1.105.424.000 đồng, bình quân là 427.000 đồng/điểm/tháng”, ông Phong cho biết thêm.
Theo đánh của Công ty Cổ phần nghiên cứu và phân tích Vietsurvey, về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, nằm trong số ít dự án quốc gia triển khai đạt kết quả và tiến độ. Diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp từ Trung ương (Bộ TT&TT, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch VHTTDL), địa phương.
Những con số ngắn gọn được Vietsurvey cho biết là dự án đã triển khai được các dịch vụ mới tại thư viện công cộng (TVCC) và BĐ-VHX: 634 điểm truy cập tại 12 tỉnh, 15 trung tâm đào tạo, lắp đặt thêm 4180 máy tính, 950 cán bộ các cấp được tập huấn. Đến nay hệ thống đã phục vụ gần 200.000 lượt người sử dụng trong đó riêng 4 tháng (1/5 – 30/9/2013) 100.000 lượt sử dụng máy tính (nguồn Oberservatory) và đang có xu hướng tăng.
Ông Nguyễn Đức Nhật Vietsurvey cho biết thêm đây là dự án được triển khai nhanh và có những kết quả tích cực, tuy nhiên, dự án vẫn còn nhiều thách thức khi hướng về mục tiêu dài hạn như:
Nhu cầu sử dụng: Tham gia mạng xã hội 81,40%, chơi trò chơi 80,87%, dùng cho học thuật 78,41%, thông tin về nhà nước, sản xuất, bệnh dịch 62,29%, Thông tin về sức khỏe 51,43%, Thông tin về văn hóa, thể thao, CT 33,25% và thông tin cơ hội việc làm là 20,80%.
Đối tượng sử dụng: Cân bằng giới được ghi nhận cho dù nam vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ trong số người sử dụng: nam (56%), nữ (44%). Tỷ lệ người sử dụng dịch vụ của nhóm người dân tộc thiểu số chưa cao: kinh 80%, dân tộc thiểu số 20%.
Về thành phần người sử dụng, đông nhất là nhóm học sinh - sinh viên và cán bộ, nông dân chiếm tỷ lệ khiêm tốn: học sinh sinh viên 40%, cán bộ 28%, nông dân gần 10%.
Công tác lãnh đạo giám sát: Nhận thức của lãnh đạo của các cơ quan quản lý TVCC và BĐ-VHX được nâng cao thông qua giá trị của dịch vụ mới và tăng cường năng lực hệ thống; Hệ thống địa phương chưa làm chủ và tận dụng hệ thống giám sát, đánh giá, phần mềm giám sát đánh giá của dự án, công tác giám sát, thu thập số liệu chậm, bị động.
Ngoài ra, Dự án còn gặp phải những thách thức tăng hiệu suất sử dụng máy và trong tuyên truyền vận động do cán bộ tại nhiều nơi còn ỷ lại, thụ động, không phát huy hết những lợi thế và nhiệm vụ chính trị của hệ thống, không tận dụng những lợi thế về thương mại, dịch vụ do dự án đem lại.
Việc người dân truy nhập nhiều vào mạng xã hội, ông Nguyễn Đức Nhật cho biết việc truy nhập này là xu hướng không thể cưỡng lại và cần phải tăng cường các hạng mục nội dung khác về học thuật, thông tin về nhà nước, sản xuất, bệnh dịch, sức khỏe, cơ hội việc làm…
Phát biểu về vai trò nội dung để truy nhập, Thứ trưởng Bộ TT&TT, Trưởng ban chỉ đạo Dự án Nguyễn Thành Hưng cũng cho biết còn tồn tại và đề nghị Ban QLDA thúc đẩy mạnh mẽ hợp phần nội dung để trang bị cho Dự án. Tổng công ty Bưu điện (VNPost) cũng nỗ lực đẩy mạnh phần nội dung được cung cấp ở địa phương.
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cũng đánh giá 4 vai trò còn nguyên giá trị của dự án, đó là:
Vai trò của cơ sở: Ban điều hành Dự án làm tốt nhưng sẽ không thành công nếu địa phương không nhận thức và thực hiện được từ cơ sở thì không thành công, ngoài ra sự phối kết hợp hỗ trợ của Sở VHTTDL và Sở TT&TT. Đây cũng là trách nhiệm của địa phương.
Người lao động làm việc tại TVCC và BĐ-VHX có vai trò quan trọng, vì vậy cần được hết sức quan tâm để có ưu chế độ và được đào tạo. Sự quan tâm không chỉ các Bộ, ngành mà còn địa phương. Thời gian tới, cần có biện pháp hỗ trợ phù hợp cho toàn bộ nhân viên ở BĐ-VHX, TVCC thì mới đạt kết quả lâu dài.
Hạ tầng rất quan trọng: đánh giá cao VNPT, VNPost hỗ trợ đường truyền Internet. Hai Bộ TT&TT và Bộ VHTT&DL sẽ kiến nghị để nhà nước cũng có chỉ đạo về cơ chế chính sách lâu dài về đường truyền chứ không nên đề nghị doanh nghiệp hỗ trợ mãi. Thể hiện sự đồng bộ của địa phương.
Truyền thông vận động: Chỗ nào nhân viên thạo nghề thì người truy nhập cao, chỗ nào không quan tâm thì vắng.
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng thẳng thắn cho biết về mặt bằng chung các địa phương trong Dự án ở miền Nam, miền Trung rất tốt nhưng các tỉnh miền Bắc chưa bằng. Giám đốc các Sở TT&TT, các Bưu điện tỉnh mặt bằng chung phải cố gắng để theo kịp.
Ông Nguyễn Đức Nhật Vietsurvey cho biết thêm đây là dự án được triển khai nhanh và có những kết quả tích cực, tuy nhiên, dự án vẫn còn nhiều thách thức khi hướng về mục tiêu dài hạn như:
Nhu cầu sử dụng: Tham gia mạng xã hội 81,40%, chơi trò chơi 80,87%, dùng cho học thuật 78,41%, thông tin về nhà nước, sản xuất, bệnh dịch 62,29%, Thông tin về sức khỏe 51,43%, Thông tin về văn hóa, thể thao, CT 33,25% và thông tin cơ hội việc làm là 20,80%.
Đối tượng sử dụng: Cân bằng giới được ghi nhận cho dù nam vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ trong số người sử dụng: nam (56%), nữ (44%). Tỷ lệ người sử dụng dịch vụ của nhóm người dân tộc thiểu số chưa cao: kinh 80%, dân tộc thiểu số 20%.
Về thành phần người sử dụng, đông nhất là nhóm học sinh - sinh viên và cán bộ, nông dân chiếm tỷ lệ khiêm tốn: học sinh sinh viên 40%, cán bộ 28%, nông dân gần 10%.
Công tác lãnh đạo giám sát: Nhận thức của lãnh đạo của các cơ quan quản lý TVCC và BĐ-VHX được nâng cao thông qua giá trị của dịch vụ mới và tăng cường năng lực hệ thống; Hệ thống địa phương chưa làm chủ và tận dụng hệ thống giám sát, đánh giá, phần mềm giám sát đánh giá của dự án, công tác giám sát, thu thập số liệu chậm, bị động.
Ngoài ra, Dự án còn gặp phải những thách thức tăng hiệu suất sử dụng máy và trong tuyên truyền vận động do cán bộ tại nhiều nơi còn ỷ lại, thụ động, không phát huy hết những lợi thế và nhiệm vụ chính trị của hệ thống, không tận dụng những lợi thế về thương mại, dịch vụ do dự án đem lại.
Việc người dân truy nhập nhiều vào mạng xã hội, ông Nguyễn Đức Nhật cho biết việc truy nhập này là xu hướng không thể cưỡng lại và cần phải tăng cường các hạng mục nội dung khác về học thuật, thông tin về nhà nước, sản xuất, bệnh dịch, sức khỏe, cơ hội việc làm…
Phát biểu về vai trò nội dung để truy nhập, Thứ trưởng Bộ TT&TT, Trưởng ban chỉ đạo Dự án Nguyễn Thành Hưng cũng cho biết còn tồn tại và đề nghị Ban QLDA thúc đẩy mạnh mẽ hợp phần nội dung để trang bị cho Dự án. Tổng công ty Bưu điện (VNPost) cũng nỗ lực đẩy mạnh phần nội dung được cung cấp ở địa phương.
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cũng đánh giá 4 vai trò còn nguyên giá trị của dự án, đó là:
Vai trò của cơ sở: Ban điều hành Dự án làm tốt nhưng sẽ không thành công nếu địa phương không nhận thức và thực hiện được từ cơ sở thì không thành công, ngoài ra sự phối kết hợp hỗ trợ của Sở VHTTDL và Sở TT&TT. Đây cũng là trách nhiệm của địa phương.
Người lao động làm việc tại TVCC và BĐ-VHX có vai trò quan trọng, vì vậy cần được hết sức quan tâm để có ưu chế độ và được đào tạo. Sự quan tâm không chỉ các Bộ, ngành mà còn địa phương. Thời gian tới, cần có biện pháp hỗ trợ phù hợp cho toàn bộ nhân viên ở BĐ-VHX, TVCC thì mới đạt kết quả lâu dài.
Hạ tầng rất quan trọng: đánh giá cao VNPT, VNPost hỗ trợ đường truyền Internet. Hai Bộ TT&TT và Bộ VHTT&DL sẽ kiến nghị để nhà nước cũng có chỉ đạo về cơ chế chính sách lâu dài về đường truyền chứ không nên đề nghị doanh nghiệp hỗ trợ mãi. Thể hiện sự đồng bộ của địa phương.
Truyền thông vận động: Chỗ nào nhân viên thạo nghề thì người truy nhập cao, chỗ nào không quan tâm thì vắng.
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng thẳng thắn cho biết về mặt bằng chung các địa phương trong Dự án ở miền Nam, miền Trung rất tốt nhưng các tỉnh miền Bắc chưa bằng. Giám đốc các Sở TT&TT, các Bưu điện tỉnh mặt bằng chung phải cố gắng để theo kịp.
Theo ICTPress
Nâng cao khả năng dùng máy tính, Internet công cộng
Ngày 10/10, tại Hà Nội, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức lễ sơ kết giai đoạn II - bước 1 Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam.”
Báo cáo kết quả triển khai dự án, ông Phan Hữu Phong, Giám đốc Ban quản lý dự án cho biết theo kế hoạch, bước 1 của Dự án được triển khai trong 15 tháng, từ tháng 4/2012-6/2013 tại 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và ba Trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban quản lý dự án đã đưa vào sử dụng 11 máy chủ, 4.180 máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị phụ trợ đã được nối mạng Internet băng thông rộng và lắp đặt cho 637 điểm đủ điều kiện thực hiện, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của ba thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp từ Trung ương đến địa phương. Đến nay, hệ thống đã phục vụ gần 200.000 lượt người sử dụng và đang có xu hướng tăng.
Về hiệu quả xã hội, dự án đã góp phần nâng cao năng lực phục vụ và cách thức cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet; hỗ trợ người dân nghèo, nhóm thiệt thòi và những người sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội được tiếp cận bình đẳng, hiệu quả với công nghệ thông tin, từ đó cải thiện được cuộc sống của cá nhân, cộng đồng và xã hội.
Phần lớn các nội dung thông tin người dân cần đều có mức độ đáp ứng khá tốt, nhất là nội dung thông tin về trao đổi trực tuyến. Những ứng dụng được cung cấp phổ biến trên Internet hiện nay như đọc tin tức, tham gia các diễn đàn, sử dụng các dịch vụ trực tuyến, điện thoại qua Internet… bước đầu được người dân khu vực nông thôn chấp nhận sử dụng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai dự án còn gặp một số khó khăn như hầu hết các điểm tham gia dự án đều ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân trí thấp, nhu cầu sử dụng dịch vụ ít nên không hiệu quả.
Do thu nhập thấp, lượng công việc nhiều, phức tạp và phải quản lý khối tài sản lớn nên nhiều nhân viên làm việc tại điểm bưu điện văn hóa xã xin nghỉ việc; ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ. Bên cạnh đó, hầu hết các đơn vị chưa chủ động tuyên truyền, quảng bá nên nhiều nơi người dân chưa biết đến dịch vụ Internet công cộng.
Trước những khó khăn trên, đại diện các đơn vị thực hiện Dự án đề xuất Ủy ban Nhân dân các địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ truyền thông về dự án thông qua phương tiện truyền thanh xã, thông qua các buổi họp, sinh hoạt cộng đồng để người dân biết, đến tìm hiểu thông tin.
Ban quản lý Dự án cần có biện pháp tích cực trong việc hỗ trợ thu nhập và công tác an toàn, an ninh cho nhân viên làm việc tại điểm Bưu điện Văn hóa xã. Dự án cần có chi phí dự phòng cho các rủi ro: mất cắp, lũ lụt, thiên tai làm ảnh hưởng đến tài sản dự án cũng như chi phí cho việc đánh giá lại tài sản khi bàn giao.
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tiếp tục hỗ trợ, đảm bảo đường truyền cho các điểm dự án./.
Báo cáo kết quả triển khai dự án, ông Phan Hữu Phong, Giám đốc Ban quản lý dự án cho biết theo kế hoạch, bước 1 của Dự án được triển khai trong 15 tháng, từ tháng 4/2012-6/2013 tại 12 tỉnh gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và ba Trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban quản lý dự án đã đưa vào sử dụng 11 máy chủ, 4.180 máy tính, 640 máy in và các trang thiết bị phụ trợ đã được nối mạng Internet băng thông rộng và lắp đặt cho 637 điểm đủ điều kiện thực hiện, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã, 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của ba thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Về tổng thể, dự án đã hoàn thành các hoạt động theo kế hoạch, diện bao phủ và đối tượng hưởng lợi rộng khắp từ Trung ương đến địa phương. Đến nay, hệ thống đã phục vụ gần 200.000 lượt người sử dụng và đang có xu hướng tăng.
Về hiệu quả xã hội, dự án đã góp phần nâng cao năng lực phục vụ và cách thức cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet; hỗ trợ người dân nghèo, nhóm thiệt thòi và những người sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội được tiếp cận bình đẳng, hiệu quả với công nghệ thông tin, từ đó cải thiện được cuộc sống của cá nhân, cộng đồng và xã hội.
Phần lớn các nội dung thông tin người dân cần đều có mức độ đáp ứng khá tốt, nhất là nội dung thông tin về trao đổi trực tuyến. Những ứng dụng được cung cấp phổ biến trên Internet hiện nay như đọc tin tức, tham gia các diễn đàn, sử dụng các dịch vụ trực tuyến, điện thoại qua Internet… bước đầu được người dân khu vực nông thôn chấp nhận sử dụng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai dự án còn gặp một số khó khăn như hầu hết các điểm tham gia dự án đều ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân trí thấp, nhu cầu sử dụng dịch vụ ít nên không hiệu quả.
Do thu nhập thấp, lượng công việc nhiều, phức tạp và phải quản lý khối tài sản lớn nên nhiều nhân viên làm việc tại điểm bưu điện văn hóa xã xin nghỉ việc; ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ. Bên cạnh đó, hầu hết các đơn vị chưa chủ động tuyên truyền, quảng bá nên nhiều nơi người dân chưa biết đến dịch vụ Internet công cộng.
Trước những khó khăn trên, đại diện các đơn vị thực hiện Dự án đề xuất Ủy ban Nhân dân các địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ truyền thông về dự án thông qua phương tiện truyền thanh xã, thông qua các buổi họp, sinh hoạt cộng đồng để người dân biết, đến tìm hiểu thông tin.
Ban quản lý Dự án cần có biện pháp tích cực trong việc hỗ trợ thu nhập và công tác an toàn, an ninh cho nhân viên làm việc tại điểm Bưu điện Văn hóa xã. Dự án cần có chi phí dự phòng cho các rủi ro: mất cắp, lũ lụt, thiên tai làm ảnh hưởng đến tài sản dự án cũng như chi phí cho việc đánh giá lại tài sản khi bàn giao.
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) tiếp tục hỗ trợ, đảm bảo đường truyền cho các điểm dự án./.
Theo VietNamPlus
Hơn 218.000 lượt người sử dụng máy tính công cộng ở 12 tỉnh
Người dân ở khu vực nông thôn được sử dụng Internet miễn phí ở thư viện và giảm 50% cước phí truy nhập ở điểm bưu điện văn hóa xã.
Sáng 10/10, Bộ Thông tin-Truyền thông tổng kết tình hình thực hiện bước 1 Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” (BMGF-VN).
Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thông tin-Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch thực hiện Dự án BMGF-VN, với tổng kinh phí là hơn 50 triệu USD, trong đó, tài trợ không hoàn lại của Quỹ Bill Melinda Gates là gần 30 triệu USD, còn lại là vốn đối ứng của phía Việt Nam.
Dự án được thực hiện trong vòng 5 năm (từ tháng 7/2011-6/2016) áp dụng tại 40 tỉnh, thành và được chia làm 3 bước. Bước 1 được triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Theo đúng kế hoạch Dự án, bước 1 bắt đầu được triển khai trong 15 tháng từ tháng 4/2012-6/2013 tại 12 tỉnh là: Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng cùng 3 Trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM.
Thứ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cho biết, việc triển khai dự án BMGF-VN đã giảm nhanh khoảng cách số giữa khu vực thành thị với nông thôn, ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý Nhà nước địa phương cũng đã được cải thiện đáng kể.
Người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã được sử dụng Internet miễn phí ở các thư viện và giảm 50% cước phí truy nhập ở các điểm bưu điện văn hóa xã. Ngày hội Internet đang được triển khai đồng loạt tại các địa phương trong khuôn khổ Dự án và bước đầu nhận được hưởng ứng tích cực từ cộng đồng. Qua đó, người dân có cơ hội tiếp cận với máy tính và Internet, tìm kiếm thông tin để bổ sung kiến thức phục vụ cho cuộc sống của họ.
Dự án BMGF-VN đã góp phần nâng cao năng lực phụ vụ và cách thức cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet để hỗ trợ người dân nghèo, sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội tiếp cận hiệu quả hơn với CNTT.
Nhận thấy việc nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng phát huy hiệu quả tới người dân, Bộ Thông tin-Truyền thông sẽ cùng với các đơn vị liên quan triển khai bước 2 của Dự án tại 16 tỉnh, thành khác trong thời gian sớm nhất.
Theo đề xuất của UBND các tỉnh và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Bộ Thông tin-Truyền thông đã phê duyệt 637 điểm đủ điều kiện thực hiện bước 1, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã; 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của 3 thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được Dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Theo số liệu thống kê từ hệ thống Đài Thiên văn, từ ngày 1/6/2012-30/9/2013 đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh với tổng thời lượng truy nhập Internet là trên 2.028 giờ. Doanh thu ở các điểm bưu điện văn hóa xã từ tháng 1-8/2013 đạt trên 1.105 tỷ đồng./.
Sáng 10/10, Bộ Thông tin-Truyền thông tổng kết tình hình thực hiện bước 1 Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” (BMGF-VN).
Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thông tin-Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch thực hiện Dự án BMGF-VN, với tổng kinh phí là hơn 50 triệu USD, trong đó, tài trợ không hoàn lại của Quỹ Bill Melinda Gates là gần 30 triệu USD, còn lại là vốn đối ứng của phía Việt Nam.
Dự án được thực hiện trong vòng 5 năm (từ tháng 7/2011-6/2016) áp dụng tại 40 tỉnh, thành và được chia làm 3 bước. Bước 1 được triển khai tại 12 tỉnh, bước 2 tại 16 tỉnh và bước 3 tại 12 tỉnh.
Theo đúng kế hoạch Dự án, bước 1 bắt đầu được triển khai trong 15 tháng từ tháng 4/2012-6/2013 tại 12 tỉnh là: Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng cùng 3 Trung tâm đào tạo vùng tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM.
Thứ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cho biết, việc triển khai dự án BMGF-VN đã giảm nhanh khoảng cách số giữa khu vực thành thị với nông thôn, ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý Nhà nước địa phương cũng đã được cải thiện đáng kể.
Người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã được sử dụng Internet miễn phí ở các thư viện và giảm 50% cước phí truy nhập ở các điểm bưu điện văn hóa xã. Ngày hội Internet đang được triển khai đồng loạt tại các địa phương trong khuôn khổ Dự án và bước đầu nhận được hưởng ứng tích cực từ cộng đồng. Qua đó, người dân có cơ hội tiếp cận với máy tính và Internet, tìm kiếm thông tin để bổ sung kiến thức phục vụ cho cuộc sống của họ.
Dự án BMGF-VN đã góp phần nâng cao năng lực phụ vụ và cách thức cung cấp thông tin thông qua máy tính và Internet để hỗ trợ người dân nghèo, sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội tiếp cận hiệu quả hơn với CNTT.
Nhận thấy việc nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng phát huy hiệu quả tới người dân, Bộ Thông tin-Truyền thông sẽ cùng với các đơn vị liên quan triển khai bước 2 của Dự án tại 16 tỉnh, thành khác trong thời gian sớm nhất.
Theo đề xuất của UBND các tỉnh và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Bộ Thông tin-Truyền thông đã phê duyệt 637 điểm đủ điều kiện thực hiện bước 1, bao gồm 311 điểm thư viện tỉnh, huyện, xã; 323 điểm bưu điện văn hóa xã và 3 trung tâm đào tạo vùng. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các phòng đào tạo của 3 thư viện tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh cũng được Dự án hỗ trợ thêm các trang thiết bị.
Theo số liệu thống kê từ hệ thống Đài Thiên văn, từ ngày 1/6/2012-30/9/2013 đã có 218.250 lượt người sử dụng máy tính ở 12 tỉnh với tổng thời lượng truy nhập Internet là trên 2.028 giờ. Doanh thu ở các điểm bưu điện văn hóa xã từ tháng 1-8/2013 đạt trên 1.105 tỷ đồng./.
Theo Đài tiếng nói Việt Nam
Khai hội UPU lần thứ 43
Lễ phát động Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU năm nay diễn ra tại trường THCS Trưng Vương, Hà Nội trong không khí thật rộn ràng, vui tươi.
Đây cũng là lần thứ 24, học sinh Việt Nam có cơ hội so tài cùng bạn bè khắp năm châu trong cuộc thi do Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Giáo dục và Đào tạo; TƯ Đoàn TNCS HCM; Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch; Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam; Báo Thiếu niên Tiền phong phối hợp tổ chức.
Phát biểu tại lễ phát động, bác Nguyễn Thành Hưng - Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông - chia sẻ: “Thật vui mừng khi chúng ta có mặt tại đây để kỷ niệm 139 năm ngày thành lập Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), tổ chức lễ phát động cuộc thi lần thứ 43 với chủ đề: “Hãy viết một bức thư diễn tả âm nhạc có thể lay động đời sống như thế nào”, cũng như trao giải khuyến khích quốc tế UPU42 cho em Đào Thụy Thùy Dương, học sinh lớp 7/10 trường THCS Tây Sơn, TP Đà Nẵng. Đây cũng là niềm vinh dự, tự hào của các em học sinh Việt Nam nói chung…”.
Cũng trong buổi lễ, nhà báo, nhà viết kịch Vũ Quang Vinh - Tổng Biên tập Báo Thiếu niên Tiền phong, Phó trưởng Ban tổ chức cuộc thi - đã tận tình giải đáp những thắc mắc, cũng như giảng giải các kỹ năng viết thư cho học sinh Trưng Vương, và chúc các bạn giành được giải cao. Thay mặt nhà trường, cô giáo Hiệu trưởng Trần Thị Thanh Thảo bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các vị đại biểu, Ban tổ chức cuộc thi đã quan tâm, giúp đỡ và chúc cuộc thi năm nay sẽ thành công rực rỡ.
Ngay sau lễ phát động, Ban tổ chức quốc gia sẽ phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức phát động tại một số địa phương để học sinh có thêm nhiều thông tin về cuộc thi, tham gia tích cực và đạt chất lượng cao.
Đây cũng là lần thứ 24, học sinh Việt Nam có cơ hội so tài cùng bạn bè khắp năm châu trong cuộc thi do Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Giáo dục và Đào tạo; TƯ Đoàn TNCS HCM; Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch; Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam; Báo Thiếu niên Tiền phong phối hợp tổ chức.
Phát biểu tại lễ phát động, bác Nguyễn Thành Hưng - Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông - chia sẻ: “Thật vui mừng khi chúng ta có mặt tại đây để kỷ niệm 139 năm ngày thành lập Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), tổ chức lễ phát động cuộc thi lần thứ 43 với chủ đề: “Hãy viết một bức thư diễn tả âm nhạc có thể lay động đời sống như thế nào”, cũng như trao giải khuyến khích quốc tế UPU42 cho em Đào Thụy Thùy Dương, học sinh lớp 7/10 trường THCS Tây Sơn, TP Đà Nẵng. Đây cũng là niềm vinh dự, tự hào của các em học sinh Việt Nam nói chung…”.
Cũng trong buổi lễ, nhà báo, nhà viết kịch Vũ Quang Vinh - Tổng Biên tập Báo Thiếu niên Tiền phong, Phó trưởng Ban tổ chức cuộc thi - đã tận tình giải đáp những thắc mắc, cũng như giảng giải các kỹ năng viết thư cho học sinh Trưng Vương, và chúc các bạn giành được giải cao. Thay mặt nhà trường, cô giáo Hiệu trưởng Trần Thị Thanh Thảo bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các vị đại biểu, Ban tổ chức cuộc thi đã quan tâm, giúp đỡ và chúc cuộc thi năm nay sẽ thành công rực rỡ.
Ngay sau lễ phát động, Ban tổ chức quốc gia sẽ phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức phát động tại một số địa phương để học sinh có thêm nhiều thông tin về cuộc thi, tham gia tích cực và đạt chất lượng cao.
Theo Thiếu niên
Phát động cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43
Sáng 9/10, tại trường Trung học cơ sở Trưng Vương, Hà Nội đã diễn ra lễ kỷ niệm 139 năm ngày thành lập Liên minh Bưu chính thế giới (9/10/1874 – 9/10/2013), phát động cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43 và trao giải khuyến khích quốc tế cuộc thi viết thư UPU lần thứ 42. Đề tài cuộc thi năm nay là “Hãy viết một bức thư diễn tả âm nhạc có thể lay động đời sống như thế nào”.
Cuộc thi viết thư quốc tế UPU hàng năm dành cho các em học sinh từ 10 – 15 tuổi do Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) tổ chức. Đây là cuộc thi mang ý nghĩa sâu sắc, giúp các em nâng cao hiểu biết, nhận thức về các vấn đề xã hội, toàn cầu; gắn bó, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc; nâng cao khả năng diễn đạt ngôn ngữ đồng thời tìm hiểu thêm về vai trò của ngành bưu chính trong cuộc sống và phát triển xã hội.
Tại Việt Nam, cuộc thi do Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, báo Thiếu niên Tiền phong phối hợp tổ chức. Cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43 (2014) là cuộc thi lần thứ 24 các em học sinh Việt Nam tham gia.
Tại cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 42 năm 2013, em Đào Thụy Thùy Dương, lớp 6/10 trường Trung học cơ sở Tây Sơn, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đoạt giải nhất quốc gia và giải khuyến khích quốc tế.
Sau lễ phát động, ban tổ chức quốc gia sẽ phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức phát động cuộc thi tại một số địa phương để các em học sinh có cơ hội tìm hiểu và tham gia.
Cuộc thi viết thư quốc tế UPU hàng năm dành cho các em học sinh từ 10 – 15 tuổi do Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) tổ chức. Đây là cuộc thi mang ý nghĩa sâu sắc, giúp các em nâng cao hiểu biết, nhận thức về các vấn đề xã hội, toàn cầu; gắn bó, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc; nâng cao khả năng diễn đạt ngôn ngữ đồng thời tìm hiểu thêm về vai trò của ngành bưu chính trong cuộc sống và phát triển xã hội.
Tại Việt Nam, cuộc thi do Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, báo Thiếu niên Tiền phong phối hợp tổ chức. Cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43 (2014) là cuộc thi lần thứ 24 các em học sinh Việt Nam tham gia.
Tại cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 42 năm 2013, em Đào Thụy Thùy Dương, lớp 6/10 trường Trung học cơ sở Tây Sơn, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đoạt giải nhất quốc gia và giải khuyến khích quốc tế.
Sau lễ phát động, ban tổ chức quốc gia sẽ phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức phát động cuộc thi tại một số địa phương để các em học sinh có cơ hội tìm hiểu và tham gia.
Theo Tạp chí Thi đua khen thưởng
Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành quan tâm tới Bưu điện hệ đặc biệt
Từ những ngày đầu cách mạng, một lực lượng Giao thông liên lạc bí mật của Đảng đã hình thành và sau đó phát triển, trưởng thành, trở thành Cục Bưu điện TƯ (nay gọi là Bưu điện TƯ). Đến nay, vẫn không nhiều người biết đến những chiến công, những hy sinh thầm lặng của những người Bưu điện hệ đặc biệt. Nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng, Chính phủ qua các thời kỳ thì hiểu rõ điều này.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội thảo Lịch sử Cục Bưu điện TƯ ngày 6/11/1997.
Trong sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp thông tin liên lạc theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc liên lạc là việc quan trọng bậc nhất trong công tác cách mệnh vì chính nó quyết định sự thống nhất chỉ huy, sự phân phối lực lượng và do đó bảo đảm thắng lợi”.
Vào thời kỳ năm 1941, tại chiến khu Việt Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng họp lần thứ 8 đã đặt ra yêu cầu mới đối với việc tổ chức lực lượng Giao thông liên lạc. Sau khi đánh giá tình hình bấy giờ, Hội nghị đi đến kết luận: “Chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn cách mạng sắp tới. Đồng thời khẳng định tính phê phán công tác giao thông liên lạc trong thời gian qua thường bị gián đoạn để cho quân thù phát hiện và khủng bố, bắt bớ gây nhiều mất mát và khó khăn trở ngại cho phong trào trong mọi hoạt động của Đảng”.
Vào thời kỳ năm 1941, tại chiến khu Việt Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng họp lần thứ 8 đã đặt ra yêu cầu mới đối với việc tổ chức lực lượng Giao thông liên lạc. Sau khi đánh giá tình hình bấy giờ, Hội nghị đi đến kết luận: “Chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn cách mạng sắp tới. Đồng thời khẳng định tính phê phán công tác giao thông liên lạc trong thời gian qua thường bị gián đoạn để cho quân thù phát hiện và khủng bố, bắt bớ gây nhiều mất mát và khó khăn trở ngại cho phong trào trong mọi hoạt động của Đảng”.
Để khắc phục những tồn tại này, Hội nghị đề ra một số biện pháp: “Sự liên lạc giữa các Đảng bộ này với các cấp bộ khác nhất thiết cần phải có ngành dự bị. Thí dụ từ A đến B phải có một ngành giao thông thì từ B đến A phải có một ngành giao thông khác. Hai ngành không biết nhau. Như vậy khi mất ngành này còn có ngành khác. Ta cần phải tìm ra các ngành giao thông đặc biệt mặc dù đường núi khó khăn, tốn mất nhiều thì giờ nhưng lại chắc chắn, quân thù khó khám phá và ngăn cản”. Từ đó, các Đảng bộ ở các cấp đã ra sức kiện toàn việc tổ chức các tuyến đường dây liên lạc.
Đồng thời, đoán trước được sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trực tiếp việc tuyển chọn một số thanh niên yêu nước có sức khỏe, có văn hóa đi ra nước ngoài đào tạo để trở thành những cán bộ lãnh đạo cách mạng đủ các mặt mà chủ yếu là cán bộ quân sự cùng nghiệp vụ thông tin vô tuyến điện. Chấp hành tinh thần chỉ đạo, tháng 9/1941, các đồng chí Lâm Bá Kiệt (tức Phạm Văn Đồng) và đồng chí Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp) đã tuyển chọn được 10 đồng chí có đủ trình độ văn hóa lên đường đi Liễu Châu vào Trường Thông tin Vô tuyến điện điện báo của đệ tứ chiến khu do Trương Phát Khuê làm Tư lệnh thuộc quân đội Tưởng Giới Thạch.
Đồng thời, đoán trước được sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trực tiếp việc tuyển chọn một số thanh niên yêu nước có sức khỏe, có văn hóa đi ra nước ngoài đào tạo để trở thành những cán bộ lãnh đạo cách mạng đủ các mặt mà chủ yếu là cán bộ quân sự cùng nghiệp vụ thông tin vô tuyến điện. Chấp hành tinh thần chỉ đạo, tháng 9/1941, các đồng chí Lâm Bá Kiệt (tức Phạm Văn Đồng) và đồng chí Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp) đã tuyển chọn được 10 đồng chí có đủ trình độ văn hóa lên đường đi Liễu Châu vào Trường Thông tin Vô tuyến điện điện báo của đệ tứ chiến khu do Trương Phát Khuê làm Tư lệnh thuộc quân đội Tưởng Giới Thạch.

Chiếc máy điện thoại Đại tướng Võ Nguyên Giáp dùng để chỉ huy chiến dịch Mậu Thân 1968 tại sở chỉ huy Bộ Tổng tư lệnh hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cục Bưu điện TƯ.
Tháng 12/1942, lớp học Vô tuyến điện ở Liễu Châu bế mạc. Các đồng chí tìm đường trở về nước và trở thành nhân lực hình thành Đài Thông tin Vô tuyến điện Trung ương. Đài này sau đó nối thông với các Đài khu vực tạo thành một mạng lưới thông tin liên lạc thống nhất trong toàn quốc chuyên trách phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.
Những năm sau khi đất nước hoàn hoàn giải phóng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn dành thời gian tới thăm Cục Bưu điện TƯ, động viên cán bộ công nhân viên của Cục vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Những năm sau khi đất nước hoàn hoàn giải phóng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn dành thời gian tới thăm Cục Bưu điện TƯ, động viên cán bộ công nhân viên của Cục vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ông Nguyễn Văn Lung, nguyên Cục trưởng Cục Bưu điện TƯ còn nhớ lần tổ chức Hội thảo Lịch sử Cục Bưu điện TƯ ngày 6/11/1997. Lần đó, trước khi tổ chức Hội thảo, Cục đã mời Đại tướng tới dự nhưng vì công việc bận nên Đại tướng trả lời không tới được và đã gửi thư chúc mừng, động viên và chỉ đạo Hội thảo.
Trong thư, Đại tướng viết: “Là một hệ thống thông tin liên lạc mật phục vụ Đảng và Chính phủ trên phạm vi cả nước trong công cuộc cách mạng và qua 2 cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược nước ta, đơn vị thông tin liên lạc mật đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, chịu đựng hy sinh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đơn vị đã cùng với ngành thông tin quân sự liên hệ mật thiết, phối hợp chặt chẽ, phục vụ có hiệu quả cao cho các chiến trường và các địa phương. Ngày nay trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đạt hóa đất nước, công tác thông tin liên lạc phục vụ Đảng và nhà nước cần được phát triển cả về số lượng và chất lượng, đội ngũ các anh chị em cán bộ và công nhân phải nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến, không ngừng phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ, phục vụ tốt các yêu cầu thông tin của Đảng và Nhà nước”.
“Tuy nhiên, điều bất ngờ là ngày diễn ra Hội thảo, các đồng chí lãnh đạo ngành Bưu điện và anh em trong Cục đã vô cùng vinh dự, vui mừng và cảm động vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có mặt. Cũng vì bất ngờ mà Hội thảo đã không hề có khẩu hiệu hay băng rôn chào đón Đại tướng”, ông Nguyễn Văn Lung nói.
Trong thư, Đại tướng viết: “Là một hệ thống thông tin liên lạc mật phục vụ Đảng và Chính phủ trên phạm vi cả nước trong công cuộc cách mạng và qua 2 cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược nước ta, đơn vị thông tin liên lạc mật đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, chịu đựng hy sinh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đơn vị đã cùng với ngành thông tin quân sự liên hệ mật thiết, phối hợp chặt chẽ, phục vụ có hiệu quả cao cho các chiến trường và các địa phương. Ngày nay trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đạt hóa đất nước, công tác thông tin liên lạc phục vụ Đảng và nhà nước cần được phát triển cả về số lượng và chất lượng, đội ngũ các anh chị em cán bộ và công nhân phải nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến, không ngừng phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ, phục vụ tốt các yêu cầu thông tin của Đảng và Nhà nước”.
“Tuy nhiên, điều bất ngờ là ngày diễn ra Hội thảo, các đồng chí lãnh đạo ngành Bưu điện và anh em trong Cục đã vô cùng vinh dự, vui mừng và cảm động vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có mặt. Cũng vì bất ngờ mà Hội thảo đã không hề có khẩu hiệu hay băng rôn chào đón Đại tướng”, ông Nguyễn Văn Lung nói.
Theo Infonet
Phát động cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43
“Hãy viết một bức thư diễn tả âm nhạc có thể lay động đời sống như thế nào?” là chủ đề của cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 43 vừa được phát động.
Cuộc thi được Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) được tổ chức thường niên, dành cho học sinh từ 10 đến 15 tuổi giúp các em nâng cao hiểu biết, nhận thức về các vấn đề xã hội, toàn cầu.
Bài dự thi phải được viết dưới dạng văn xuôi (chưa đăng báo hoặc in sách), dài không quá 800 từ. Bài viết rõ ràng, sạch sẽ, viết tay trên một mặt giấy, gửi vào phong bì có dán tem, ghi rõ địa chỉ người gửi/địa chỉ nơi nhận kèm mã bưu chính (112815) và gửi qua đường bưu điện. Các thí sinh đoạt giải chính thức sẽ được công nhận học sinh giỏi quốc gia môn Văn tương ứng và được cộng điểm khi xét chuyển cấp. Bức thư đoạt giải Nhất của Việt Nam sẽ được ban tổ chức gửi nguyên văn kèm theo bản dịch tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để tham dự cuộc thi quốc tế.
Cuộc thi được Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) được tổ chức thường niên, dành cho học sinh từ 10 đến 15 tuổi giúp các em nâng cao hiểu biết, nhận thức về các vấn đề xã hội, toàn cầu.
Bài dự thi phải được viết dưới dạng văn xuôi (chưa đăng báo hoặc in sách), dài không quá 800 từ. Bài viết rõ ràng, sạch sẽ, viết tay trên một mặt giấy, gửi vào phong bì có dán tem, ghi rõ địa chỉ người gửi/địa chỉ nơi nhận kèm mã bưu chính (112815) và gửi qua đường bưu điện. Các thí sinh đoạt giải chính thức sẽ được công nhận học sinh giỏi quốc gia môn Văn tương ứng và được cộng điểm khi xét chuyển cấp. Bức thư đoạt giải Nhất của Việt Nam sẽ được ban tổ chức gửi nguyên văn kèm theo bản dịch tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để tham dự cuộc thi quốc tế.
Theo Sài Gòn tiếp thị
Tin liên quan
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 13/10/2025
13/10/2025 09:43
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 10/10/2025
10/10/2025 17:15
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 08/10/2025
08/10/2025 10:55
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 06/10/2025
06/10/2025 09:42
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 03/10/2025
03/10/2025 09:24
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 02/10/2025
02/10/2025 16:24