Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 17/12/2013

Tin trong nước

LienVietPostBank tài trợ 2.000 tỷ đồng cho dự án nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng

Ngày 17/12/2013 tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) ký kết hợp đồng tín dụng cam kết tài trợ 2.000 tỷ đồng cho Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01 do PVN là chủ đầu tư góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án, qua đó tăng cường an ninh năng lượng quốc gia.
 
Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01, đặt tại xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh có tổng vốn đầu tư đã phê duyệt là 1,595 tỷ USD và đang triển khai công tác điều chỉnh tổng mức đầu tư với giá trị khoảng 1,77 tỷ USD. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư Dự án bao gồm: 30% vốn Chủ đầu tư và 70% vốn vay.

Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01 có công suất thiết kế 1.200 MW (gồm 02 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 600 MW). Tổng thầu EPC của Dự án Nhà máy Nhiệt điện này là Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA).

Dự án này là một trong những dự án điện cấp bách được hưởng các cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện đầu tư xây dựng theo Quyết định số 1195/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/11/2005, nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng, đảm bảo mục tiêu an ninh năng lượng Quốc gia, cung cấp sản lượng điện đáng kể (7,2 tỷ kWh/ năm) đáp ứng nhu cầu phát triển phụ tải của khu vực Miền Trung, giảm tổn thất do phải truyền tải đi xa, tăng cường độ tin cậy cung cấp điện cho khu vực này nói riêng và toàn bộ hệ thống điện Quốc gia nói chung, phục vụ phát triển kinh tế xã hội khu vực cũng như cả nước.

Khi đi vào hoạt động chính thức, Nhà máy sẽ cung cấp điện cho toàn bộ khu vực Hà Tĩnh, Nghệ An, đặc biệt tập trung cho Khu Công nghiệp Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là dự án có vai trò hạt nhân phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng cho khu vực Bắc miền Trung Việt Nam.

Dự án được khởi công từ tháng 12/2006 và hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện. Dự án đang được Ban Quản lý dự án, Tổng thầu EPC và các Nhà thầu phụ tập trung mọi nguồn lực hoàn thành các hệ thống/ hạng mục còn lại của Dự án với mục tiêu phát điện Tổ máy 1, hòa vào lưới điện Quốc gia trong tháng 12/2013; vận hành thương mại Tổ máy 1 vào tháng 06/2014 và Tổ máy 2 vào tháng 12/ 2013.

Tổng khối lượng công việc của Dự án đến nay đã hoàn thành khoảng 93,27% (trong đó công tác thiết kế 99,88%, công tác mua sắm thiết bị 99,50%, công tác thi công xây lắp 95,80%, công tác chạy thử 34,30%). Đặc biệt, ngày 17/08/2013 bắt đầu đốt lửa lần đầu Lò hơi Tổ máy 1 và đã thành công vượt mốc tiến độ đặt ra ngày 01/09/2013. Tổng giá trị giải ngân của Dự án đến nay ước đạt khoảng 23.034,20 tỷ VNĐ.

Cam kết tài trợ cho Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01 không chỉ khẳng định tiềm lực tài chính của Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, với tư cách là nhà tài trợ tín dụng cho hàng loạt dự án điện lực, mà còn là một điểm sáng trong hoạt động tín dụng trên thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam năm 2013.

Tháng 12/2009, LienVietPostBank là Ngân hàng phục vụ giải ngân cho Dự án “Phát triển năng lượng tái tạo và mở rộng cải tạo điện lưới cho các xã vùng sâu vùng xa” do Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tài trợ trị giá 151 triệu USD. Tháng 3/2011, LienVietPostBank tiếp tục là ngân hàng phục vụ giải ngân cho Dự án “Đầu tư Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương 01 – khoản vay 2” do ADB tài trợ lên tới hơn 902 triệu USD.

Vào tháng 10/2012 Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt đã tham gia ký kết hợp đồng tín dụng với Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP), thành viên của PVN, để PVEP đầu tư dự án phát triển và khai thác mỏ dầu khí lô 15-2/01 gần TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tổng số tiền tài trợ dự án lên đến 140 triệu USD. Trong đó, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt tham gia tài trợ với khoản tiền 17.500.000 USD (Mười bẩy triệu, năm trăm nghìn đô la Mỹ).

Tháng 04/2013, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt và Công ty Cổ phần Điện Việt-Lào, Thành viên của Tổng Công ty Sông Đà, đã ký kết Hợp đồng tín dụng đầu tư Dự án Thủy điện Xekaman 3, tỉnh Sekong, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Thời hạn cho vay Dự án tối đa là 10 năm và tổng số tiền vay lên tới 51,5 triệu USD.
 
Theo Tiền phong




LienVietPostBank ký hợp đồng tín dụng tài trợ Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01

Ngày 17/12/2013 tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) ký kết hợp đồng tín dụng cam kết tài trợ 2.000 tỷ đồng cho Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01, tại xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, do PVN là chủ đầu tư góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án, qua đó tăng cường an ninh năng lượng quốc gia.
 


Lễ ký kết với sự chứng kiến của các lãnh đạo PVN và LienVietPostBank

Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01, đặt tại xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh có tổng vốn đầu tư đã phê duyệt là 1,595 tỷ USD và đang triển khai công tác điều chỉnh tổng mức đầu tư với giá trị khoảng 1,77 tỷ USD. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư Dự án bao gồm: 30% vốn Chủ đầu tư và 70% vốn vay.

Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01 có công suất thiết kế 1.200 MW (gồm 02 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 600 MW). Tổng thầu EPC của Dự án Nhà máy Nhiệt điện này là Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA).

Dự án này là một trong những dự án điện cấp bách được hưởng các cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện đầu tư xây dựng theo Quyết định số 1195/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/11/2005, nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng, đảm bảo mục tiêu an ninh năng lượng Quốc gia, cung cấp sản lượng điện đáng kể (7,2 tỷ kWh/ năm) đáp ứng nhu cầu phát triển phụ tải của khu vực Miền Trung, giảm tổn thất do phải truyền tải đi xa, tăng cường độ tin cậy cung cấp điện cho khu vực này nói riêng và toàn bộ hệ thống điện Quốc gia nói chung, phục vụ phát triển kinh tế xã hội khu vực cũng như cả nước.

Khi đi vào hoạt động chính thức, Nhà máy sẽ cung cấp điện cho toàn bộ khu vực Hà Tĩnh, Nghệ An, đặc biệt tập trung cho Khu Công nghiệp Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là dự án có vai trò hạt nhân phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng cho khu vực Bắc miền Trung Việt Nam.

Dự án được khởi công từ tháng 12/2006 và hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện. Dự án đang được Ban Quản lý dự án, Tổng thầu EPC và các Nhà thầu phụ tập trung mọi nguồn lực hoàn thành các hệ thống/ hạng mục còn lại của Dự án với mục tiêu phát điện Tổ máy 1, hòa vào lưới điện Quốc gia trong tháng 12/2013; vận hành thương mại Tổ máy 1 vào tháng 06/2014 và Tổ máy 2 vào tháng 12/ 2013.

Tổng khối lượng công việc của Dự án đến nay đã hoàn thành khoảng 93,27% (trong đó công tác thiết kế 99,88%, công tác mua sắm thiết bị 99,50%, công tác thi công xây lắp 95,80%, công tác chạy thử 34,30%). Đặc biệt, ngày 17/08/2013 bắt đầu đốt lửa lần đầu Lò hơi Tổ máy 1 và đã thành công vượt mốc tiến độ đặt ra ngày 01/09/2013. Tổng giá trị giải ngân của Dự án đến nay ước đạt khoảng 23.034,20 tỷ VNĐ.

Cam kết tài trợ cho Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01 không chỉ khẳng định tiềm lực tài chính của Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, với tư cách là nhà tài trợ tín dụng cho hàng loạt dự án điện lực, mà còn là một điểm sáng trong hoạt động tín dụng trên thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam năm 2013.

Tháng 12/2009, LienVietPostBank là Ngân hàng phục vụ giải ngân cho Dự án “Phát triển năng lượng tái tạo và mở rộng cải tạo điện lưới cho các xã vùng sâu vùng xa” do Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tài trợ trị giá 151 triệu USD. Tháng 3/2011, LienVietPostBank tiếp tục là ngân hàng phục vụ giải ngân cho Dự án “Đầu tư Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương 01 – khoản vay 2” do ADB tài trợ lên tới hơn 902 triệu USD.

Vào tháng 10/2012 Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt đã tham gia ký kết hợp đồng tín dụng với Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP), thành viên của PVN, để PVEP đầu tư dự án phát triển và khai thác mỏ dầu khí lô 15-2/01 gần TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tổng số tiền tài trợ dự án lên đến 140 triệu USD. Trong đó, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt tham gia tài trợ với khoản tiền 17.500.000 USD (Mười bẩy triệu, năm trăm nghìn đô la Mỹ).

Tháng 04/2013, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt và Công ty Cổ phần Điện Việt-Lào, Thành viên của Tổng Công ty Sông Đà, đã ký kết Hợp đồng tín dụng đầu tư Dự án Thủy điện Xekaman 3, tỉnh Sekong, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Thời hạn cho vay Dự án tối đa là 10 năm và tổng số tiền vay lên tới 51,5 triệu USD.
 

Đại diện LienVietPostBank, PVN và Quỹ Tấm lòng Việt cùng trao tượng trưng tivi cho các hộ gia đình nghèo tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

Nhân Lễ Ký kết Hợp đồng tín dụng cho Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 01, tổ chức tại trụ sở của PVN, số 18 đường Láng Hạ, Quận Ba Đình, TP. Hà Nội, LienVietPostBank và PVN thông qua Quỹ Tấm lòng Việt – Đài Truyền hình Việt Nam, trao tặng 300 tivi cho các hộ gia đình nghèo thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh – là địa phương có dự án nhiệt điện Vũng Áng.

Theo LienVietPostBank





Xử phạt các sai phạm hành chính thuế có gì mới?

Có hiệu lực từ ngày 15/12, Nghị định số 129/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế thu hút sự quan tâm của dư luận, bởi có nhiều chế tài xử phạt vi phạm mới liên quan trực tiếp đến các tổ chức, cá nhân khi thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
 
Nghị định số 129/2013/NĐ-CP đã có nhiều điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo đồng bộ với hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) và hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời, giải quyết những tồn tại, hạn chế bất cập của các quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế hiện hành còn vướng mắc.

Thay đổi nhiều mức phạt vi phạm hành chính về thuế

Điểm đáng chú ý của Nghị định 129/2013/NĐ-CP là phân biệt mức phạt tiền giữa tổ chức và cá nhân có hành vi vi phạm thủ tục thuế và hành vi trốn thuế (mức phạt tiền đối với người nộp thuế là cá nhân, hộ gia đình bằng ½ mức phạt tiền đối với tổ chức). Điều chỉnh này sẽ khắc phục được một phần bất hợp lý về mức phạt tiền đối với cá nhân không quá cao so với số tiền thuế mà cá nhân phải nộp như thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Áp dụng thống nhất một mức phạt tiền 20% đối với cá nhân, tổ chức có hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn.

Nếu như trước đây, mức phạt tối đa của khung phạt tiền gấp 10 lần mức phạt tối thiểu thì tại Nghị định số 129/2013/NĐ-CP khoảng cách chênh lệch giữa mức tối đa và mức tối thiểu của khung phạt tiền chỉ còn 2,5 lần, tránh áp dụng tùy tiện.

Đối với hành vi chậm nộp tiền thuế không xử phạt hành chính mà chuyển sang áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là nộp tiền chậm nộp tiền thuế theo tỷ lệ là 0,05% hoặc 0,07% 1 ngày trên số tiền chậm nộp thuế.

Điềm mới đáng lưu ý nữa là quy định về thời hạn truy thu. Theo đó, người nộp thuế có hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp, tăng số thuế được hoàn, tăng số tiền thuế được miễn giảm, hành vi trốn thuế thì thời hạn truy thu các khoản thuế bị truy thu, truy hoàn, trốn thuế, tiền chậm nộp thuế hoàn là 10 năm, trừ các trường  hợp người  nộp thuế không đăng ký thuế và trốn thuế thì thời hạn truy thu thuế không khống chế. Trước đây không khống chế thời hạn truy thu.

Về hình thức xử phạt, hình thức phạt cảnh cáo áp dụng đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.

Nghị định số 129/2013/NĐ-CP cũng đã bỏ quy định về hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế.

Trường hợp khai sai người nộp thuế đã khai bổ sung hồ sơ khai thuế và đã nộp đủ số tiền thuế phải nộp trước thời điểm cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế thì sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế.

Nghị định cũng không quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá vận chuyển trên đường, bởi việc xử phạt vi phạm hành vi này theo quy định riêng của Chính phủ.

Cũng theo Nghị định này, cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế có quyền đề nghị miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế mà số tiền phạt từ 3 triệu đồng trở lên trong trường hợp gặp khó khăn đặc biệt, đột xuất về kinh tế do thiên tai, hỏa hoạn, thảm họa, tai nạn, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo.

Mức miễn, giảm tiền phạt tối đa bằng số tiền phạt còn lại trong quyết định xử phạt và không quá giá trị tài sản, hàng hóa bị thiệt hại, chi phí chữa bệnh.

Phân biệt thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân và tổ chức

Nghị định số 129/2013/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, phân biệt thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân và tổ chức theo nguyên tắc thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân bằng ½ thẩm quyền xử phạt đối với tổ chức, khống chế thẩm quyền xử phạt theo số tiền tuyệt đối.

Còn, thẩm quyền xử phạt đối với tổ chức, cá nhân có hành vi trốn thuế, hành vi khai thiếu thuế, hành vi không trích chuyển từ tài khoản của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế thực hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế (không khống chế theo số tiền tuyệt đối), cụ thể đối với tổ chức:

Công chức thuế có quyền xử phạt phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 1 triệu đồng đối với hành vi vi phạm hành chính về thuế.

Đối trưởng Đội thuế có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 5 triệu đồng đối với vi phạm thủ tục thuế;

Chi cục trưởng Chi cục Thuế có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 50 triệu đồng; Cục trưởng Cục Thuế có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 140 triệu đồng; Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 200 triệu đồng đối với vi phạm thủ tục thuế; phạt tiền đối với hành vi quy định tại Điều 10, 11, 12 Nghị định (hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, hành vi trốn thuế, gian lận thuế, hành vi vi phạm của ngân hàng...); áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Đối với cá nhân các mức phạt nêu trên giảm bằng ½.

Linh hoạt áp dụng biện pháp cưỡng chế

Nội dung quy định về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế tại Nghị định được căn cứ trên cơ sở Luật xử lý vi phạm hành chính và Luật quản lý thuế (sửa đổi) trong đó có những quy định mới đáng lưu ý, như thay đổi thứ tự biện pháp, bỏ một số biện pháp cưỡng chế…

Chẳng hạn, thay đổi thứ tự biện pháp cưỡng chế: biện pháp cưỡng chế thông báo hoá đơn không còn giá trị sử dụng là biện pháp cưỡng chế thứ ba áp dụng sau biện pháp cưỡng chế khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập.

Biện pháp cưỡng chế thông báo hoá đơn không còn giá trị sử dụng được áp dụng để thay thế cho biện pháp cưỡng chế thu hồi mã số thuế; đình chỉ việc sử dụng hoá đơn trước đây.

Bỏ biện pháp cưỡng chế tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế.

Và trong thời gian được nộp dần tiền nợ thuế, tiền phạt thì chưa áp dụng biện pháp cưỡng chế.

Trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền phạt có hành vi bỏ trốn, tẩu tán tài sản thì tùy tình hình để linh hoạt áp dụng biện pháp cưỡng chế.

Nghị định cũng quy định, trong trường hợp cần thiết phải phong toả tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thì quyết định cưỡng chế phải ghi rõ phong toả một phần hoặc toàn bộ số tiền trên tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế (khi áp dụng biện pháp cưỡng chế trích tiền từ tài khoản) tại Điều 27.

Về định giá tài sản kê biên theo Điều 43, nếu tài sản kê biên có giá trị dưới 1 triệu đồng nếu các bên không có thoả thuận thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm định giá.

Trường hợp tài sản kê biên trị giá từ 1 triệu đồng trở lên thuộc loại khó định giá thì người có ra quyết định cưỡng chế đề nghị cơ quan có thẩm quyền thành lập hội đồng định giá.

Nghị định số 129/2013/NĐ-CP được ban hành là một bước nhằm thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi phạm hành chính; đảm bảo tính công khai, minh bạch, thống nhất, công bằng trong áp dụng pháp luật. Nghị định cũng góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý hành chính thuế nhằm chống thất thu, giảm nợ thuế, thu đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước.

Theo Cổng TTĐT Chính phủ





Đẩy mạnh sử dụng hệ thống thư, văn bản điện tử

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giao Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp, nhiệm vụ tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử, văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg ngày 3/12/2008 về việc tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước và 1 năm thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dựng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, tình hình ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong cả nước đã đạt được nhiều kết quả đáng chú ý.

Hạ tầng kỹ thuật CNTT ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi triển khai ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Số lượng máy tính được trang bị cho cán bộ, công chức nhằm phục vụ cho công việc ngày càng tăng, góp phần tạo môi trường làm việc điện tử rộng khắp, tăng năng suất, hiệu quả công việc.

Hệ thống mạng LAN được triển khai tại tất cả các Bộ, ngành, địa phương; mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước đã được triển khai xây dựng trên quy mô quốc gia. 100% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; 96,8% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai và sử dụng hệ thống thư điện tử.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thực hiện các Chỉ thị trên còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế trong đó khó khăn lớn nhất là ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, hạ tầng kỹ thuật còn thiếu thốn do kinh phí để nâng cấp, duy trì các hệ thống thư điện tử, hệ thống quản lý văn bản và điều hành còn hạn hẹp...

Để hoàn thành được những mục tiêu các Chỉ thị đã đề ra, Bộ thông tin và Truyền thông đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ tận dụng triệt để cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện có, tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử, hệ thống quản lý văn bản và điều hành nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả làm việc, hướng tới cải cách hành chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng thời ưu tiên đảm bảo đủ kinh phí duy trì, nâng cấp hệ thống thư điện tử, hệ thống quản lý văn bản và điều hành; gắn kết chặt chẽ ứng dụng CNTT với cải cách hành chính; bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, từng bước ứng dụng chữ ký số; nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo các cơ quan nhà nước các cấp trong việc ứng dụng hiệu quả các hệ thống thông tin tăng cường trao đổi văn bản điện tử, quản lý, điều hành tại cơ quan mình.

Bên cạnh đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các Chỉ thị tại các cơ quan, đơn vị; tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện trao đổi, xử lý văn bản điện tử, nghiên cứu và đề xuất các văn bản pháp lý cao hơn nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và trao đổi, xử lý văn bản điện tử nói riêng.
 
Theo Cổng TTĐT Chính phủ





Tin từ các doanh nghiệp Bưu chính khác

Viettelpost trao tặng ngôi nhà 100 đồng đầu tiên

Ngày 14/12 vừa qua, thay mặt Đảng ủy, Ban giám đốc Tổng công ty, đồng chí Đại tá Phó Đức Hùng - Bí thư đảng ủy, PTGĐ cùng đồng chí Phó bí thư Đoàn cơ sở đã trao tặng ngôi nhà 100 đồng cho gia đình đồng chíLê Đức Phong – GĐ CN Bưu chính Viettel Hòa Bình.Đây là Lễ trao tặng ngôi nhà 100 đồng đầu tiên của Viettelpost trong năm nay.
 

Sau hơn 2 tháng thi công, ngôi nhà cấp 4 khang trang trên nền diện tích hơn 80m2 tại địa chỉĐường Tôn Thất Thuyết, Tổ 24 phường Đồng Tiến, Tp Hòa Bình, tỉnh Hòa Bìnhđã được hoàn thiện và đưa vào sử dụng. Đây sẽ là chỗ giúp đồng chí Lê Đức Phong ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, xây dựng gia đình và đơn vị ngày càng vững mạnh.

Đồng chí Lê Đức Phong nguyên là nhân viên Chi nhánh Bưu chính Viettel Sơn La. Sau đó, đồng chí xung kích xuống xây dựng đơn vị Hòa Bình. Sau 2 năm công tác, đồng chí đã đưa Hòa Bình từ chi nhánh yếu thành chi nhánh luôn đứng trong top các đơn vị hoàn thành kế hoạch doanh thu, công nợ. Bản thân đồng chí 2 năm liền được Tập đoàn khen thưởng Chiến sỹ thi đua.Tuy nhiên, đồng chí có hoàn cảnh khó khăn, khi xuống Hòa Bình công tác, đồng chí cùng gia đình phải ở nhà thuê, vợ thu nhập không ổn định và phải nuôi mẹ già hơn 70 tuổi cùng 1 con nhỏ.

“Ngôi nhà 100 đồng” là phong trào hưởng ứng Chương trình tiết kiệm của Đoàn Thanh niên Tập đoàn Viễn thông Quân đội với mục tiêu “Hành động nhỏ, ý nghĩa lớn”, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, cụ thể hóa triết lý gắn hoạt động SXKD với hoạt động xã hội của Tập đoàn.Theo đó mỗi đoàn viên, thanh niên trong Tập đoàn cùng tiết kiệm mỗi ngày 100đ (36.500đ/năm) để góp sức xây dựng nhà cho những đoàn viên, thanh niên có hoàn cảnh khó khăn nhưng có nhiều đóng góp xây dựng Tập đoàn vững mạnh.

Theo ViettelPost