Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 26/12/2013

Tạp chí Tem Việt Nam - 20 năm tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới
Hôm nay 25/12, Tạp chí Tem Việt Nam đã tổ chức Kỷ niệm 20 năm Tạp chí Tem ra số đầu tiên (1993 - 2013).
Đến dự có Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng; Chủ tịch Tổng công ty Bưu điện Đỗ Ngọc Bình cùng toàn thể cán bộ Tạp chí Tem và nhiều thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên đã công tác tại Tạp chí Tem 20 năm qua.
Đến dự có Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng; Chủ tịch Tổng công ty Bưu điện Đỗ Ngọc Bình cùng toàn thể cán bộ Tạp chí Tem và nhiều thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên đã công tác tại Tạp chí Tem 20 năm qua.

Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng, Chủ tịch Đỗ Ngọc Bình và Chủ tịch Liên chi hội nhà báo TT&TT Nguyễn Huy Luận, các cộng tác viên chụp ảnh lưu niệm với các cán bộ Tạp chí Tem qua các thời kỳ
“Vạn sự khởi đầu”, mùa Xuân năm Quý Dậu - 1993, trong xu thế phát triển của đất nước, sự chuyển đổi cơ cấu của ngành Bưu điện, trước nhu cầu của phong trào sưu tập tem, Tạp chí Tem, cơ quan của Hội Tem Việt Nam, tiếng nói của Hội viên trong cả nước, được cấp phép hoạt động và ra số báo đầu tiên, góp tiếng nói văn hóa tem trong làng báo chí Cách mạng Việt Nam.
20 năm qua, được sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Cán sự Đảng - Tổng cục Bưu điện, sau này là Bộ Bưu chính Viễn thông và này là Bộ TT&TT, sự chỉ đạo của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam, Tạp chí Tem luôn giữ vững định hướng, tôn chỉ mục đích là thông tin, tuyên truyền, quảng bá tem Bưu chính.
Với gần 20 chuyên mục, Tạp chí Tem đã hướng dẫn người chơi tem cách thức sưu tập, trưng bày, tham gia triển lãm trong nước, quốc tế, hướng dẫn tổ chức hoạt động Hội, hoạt động Câu lạc bộ sưu tập tem, và trên cơ sở đó đã đóng góp cho việc phát triển phong trào sưu tập trong cả nước, góp phần nâng cao dân trí, thẩm mỹ hội họa, xây dựng và phát triển sân chơi văn hóa lành mạnh, trí tuệ, nhất là đối với lớp trẻ.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Tổng Biên tập Tạp chí Tem Nguyễn Thị Hồng Vĩnh cho biết bằng những bài viết về con tem bưu chính, về thú chơi tem, về người chơi tem, và về Bưu điện Việt Nam, người làm ra con tem bưu chính, về các Bưu điện tỉnh, thành phố là nơi cung ứng tem cho hoạt động bưu chính công ích của Nhà nước… Tạp chí đã có những tác động tích cực và hiệu quả đến chất lượng thiết kế, sản xuất kinh doanh và cũng như phát triển tem Bưu chính.
“Bằng việc phát hành, trao đổi, giao lưu với nhiều đối tượng, nhất là các tạp chí, chuyên san về tem chơi, các Hội Tem trong khu vực và thế giới và bằng việc tham gia các cuộc triển lãm tem quốc tế và triển lãm tem thế giới, Tạp chí Tem cũng đã đóng góp tích cực trong việc tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới như một kênh đối ngoại nhân dân sinh động, hiệu quả vì hòa bình, hợp tác, hữu nghị và tiến bộ xã hội. Tất cả những thành quả đó là hoa trái của một phong trào được xây dựng bởi bao nhiêu huyết, tâm sức và trách nhiệm của các thế hệ làm Tạp chí Tem”, Tổng Biên tập Tạp chí Tem Nguyễn Thị Hồng Vĩnh cho biết thêm.
Xúc động nhớ lại buổi khởi đầu của Tạp chí Tem, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Tem Vũ Văn Tỵ cho biết thật vô cùng thiếu thốn, nhưng nhân tài như hoa nở mùa xuân, những bài chính luận có bác Hoàng Tùng, Bác Vũ Khiêu, Bác Nguyệt Tú; những nội dung văn hóa, tư tưởng có bác Tô Hoài, bác Giang Quân, nhưng vần thơ sâu lắng có bác Vũ Khiêu, những trang bình luận về tem có bác Đức Vân, những nét xuân trong câu đối Tết có bác Lỗ Công, Nguyễn Văn Bách, làm cho Tạp chí Tem sớm có vị thế trong giới báo chí, được độc giả đón đọc. Chúng ta trân trọng với lớp cán bộ xây dựng, đóng góp công đức cho Tạp chí Tem, ở buổi ban đầu, đã qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khi về hưu lại bắt tay vào mặt trân tư tưởng vă hóa tem, tiêu biểu là bác Trương Văn Thoan, bác Lê Quang Huy, Trần Anh Chương, Đoàn Quang Vinh cùng với cán bộ kết tiếp để lại bộ sưu tập 122 số báo, đủ thể loại về một Việt Nam, đất nước - con người trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, đậm đà về văn hóa – xã hội nâng tầm tem bưu chính qua từng trang báo.
Thứ trưởng Bộ TT&TT, Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng nhân dịp này đã chúc mừng Tạp chí Tem 20 năm phát hành số đầu tiên và đánh giá cao những đóng góp đam mê và tận tuy cho sự phát triển cho Tạp chí Tem, Hội Tem Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua của đội ngũ cán bộ Tạp chí.
“Mong các bác các anh, chị mặc dù thời gian qua nhưng giữ nguyên nhiệt huyết cống hiến cho sự nghiệp phát triển âm thầm nhưng nhiều ý nghĩa để tạp chí, Hội tem và đưa Tạp chí Tem, Hội Tem phát triển lên một tầm cao mới. Cũng mong tạp chí Tem trong thời gian tới bên cạnh tiếp tục là kênh thông tin quảng bá cho sự nghiệp Tem, Hội Tem nhưng cũng đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước”, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng phát biểu.
20 năm qua, được sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Cán sự Đảng - Tổng cục Bưu điện, sau này là Bộ Bưu chính Viễn thông và này là Bộ TT&TT, sự chỉ đạo của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam, Tạp chí Tem luôn giữ vững định hướng, tôn chỉ mục đích là thông tin, tuyên truyền, quảng bá tem Bưu chính.
Với gần 20 chuyên mục, Tạp chí Tem đã hướng dẫn người chơi tem cách thức sưu tập, trưng bày, tham gia triển lãm trong nước, quốc tế, hướng dẫn tổ chức hoạt động Hội, hoạt động Câu lạc bộ sưu tập tem, và trên cơ sở đó đã đóng góp cho việc phát triển phong trào sưu tập trong cả nước, góp phần nâng cao dân trí, thẩm mỹ hội họa, xây dựng và phát triển sân chơi văn hóa lành mạnh, trí tuệ, nhất là đối với lớp trẻ.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Tổng Biên tập Tạp chí Tem Nguyễn Thị Hồng Vĩnh cho biết bằng những bài viết về con tem bưu chính, về thú chơi tem, về người chơi tem, và về Bưu điện Việt Nam, người làm ra con tem bưu chính, về các Bưu điện tỉnh, thành phố là nơi cung ứng tem cho hoạt động bưu chính công ích của Nhà nước… Tạp chí đã có những tác động tích cực và hiệu quả đến chất lượng thiết kế, sản xuất kinh doanh và cũng như phát triển tem Bưu chính.
“Bằng việc phát hành, trao đổi, giao lưu với nhiều đối tượng, nhất là các tạp chí, chuyên san về tem chơi, các Hội Tem trong khu vực và thế giới và bằng việc tham gia các cuộc triển lãm tem quốc tế và triển lãm tem thế giới, Tạp chí Tem cũng đã đóng góp tích cực trong việc tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới như một kênh đối ngoại nhân dân sinh động, hiệu quả vì hòa bình, hợp tác, hữu nghị và tiến bộ xã hội. Tất cả những thành quả đó là hoa trái của một phong trào được xây dựng bởi bao nhiêu huyết, tâm sức và trách nhiệm của các thế hệ làm Tạp chí Tem”, Tổng Biên tập Tạp chí Tem Nguyễn Thị Hồng Vĩnh cho biết thêm.
Xúc động nhớ lại buổi khởi đầu của Tạp chí Tem, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Tem Vũ Văn Tỵ cho biết thật vô cùng thiếu thốn, nhưng nhân tài như hoa nở mùa xuân, những bài chính luận có bác Hoàng Tùng, Bác Vũ Khiêu, Bác Nguyệt Tú; những nội dung văn hóa, tư tưởng có bác Tô Hoài, bác Giang Quân, nhưng vần thơ sâu lắng có bác Vũ Khiêu, những trang bình luận về tem có bác Đức Vân, những nét xuân trong câu đối Tết có bác Lỗ Công, Nguyễn Văn Bách, làm cho Tạp chí Tem sớm có vị thế trong giới báo chí, được độc giả đón đọc. Chúng ta trân trọng với lớp cán bộ xây dựng, đóng góp công đức cho Tạp chí Tem, ở buổi ban đầu, đã qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khi về hưu lại bắt tay vào mặt trân tư tưởng vă hóa tem, tiêu biểu là bác Trương Văn Thoan, bác Lê Quang Huy, Trần Anh Chương, Đoàn Quang Vinh cùng với cán bộ kết tiếp để lại bộ sưu tập 122 số báo, đủ thể loại về một Việt Nam, đất nước - con người trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, đậm đà về văn hóa – xã hội nâng tầm tem bưu chính qua từng trang báo.
Thứ trưởng Bộ TT&TT, Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng nhân dịp này đã chúc mừng Tạp chí Tem 20 năm phát hành số đầu tiên và đánh giá cao những đóng góp đam mê và tận tuy cho sự phát triển cho Tạp chí Tem, Hội Tem Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua của đội ngũ cán bộ Tạp chí.
“Mong các bác các anh, chị mặc dù thời gian qua nhưng giữ nguyên nhiệt huyết cống hiến cho sự nghiệp phát triển âm thầm nhưng nhiều ý nghĩa để tạp chí, Hội tem và đưa Tạp chí Tem, Hội Tem phát triển lên một tầm cao mới. Cũng mong tạp chí Tem trong thời gian tới bên cạnh tiếp tục là kênh thông tin quảng bá cho sự nghiệp Tem, Hội Tem nhưng cũng đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước”, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng phát biểu.

Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng trao tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ TT&TT cho 8 cán bộ của Tạp chí Tem
Chủ tịch Hội tem Việt Nam, Chủ tịch Tổng công ty Bưu điện trao tặng Giấy khen cho các cá nhân, cộng tác viên, tập thể đã có thành tích xuất sắc trong xây dựng và phát triển Tạp chí tem 2010 - 2013
Với những nỗ lực không mệt mỏi, qua hơn 20 năm hoạt động, Tạp chí Tem đã nhận được Bằng khen của Bộ TT&TT, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam và đoạt giải nhiều Hội Báo Xuân. Tổng kết 10 năm (1993 - 2003), Tạp chí Tem được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III. Trong các Triển lãm Tem quốc tế và thế giới, Tạp chí Tem nhiều lần tham gia và đã đạt được nhiều giải Bạc như ở Triển lãm Tem Thế giới tại Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, đặc biệt Triển lãm Tem quốc tế tại Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất 2006 và tại Triển lãm Tem thế giới PhilaNippon 2011, Tạp chí đã đoạt giải Bạc lớn.
Theo ICTPress
Tạp chí Tem tổ chức kỷ niệm 20 năm ra số đầu tiên
Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng chụp ảnh lưu niệm với các cộng tác viên, cán bộ Tạp chí Tem qua các thời kỳ
Ngày 25/12/2013, Tạp chí Tem Việt Nam đã tổ chức kỷ niệm 20 năm ra số đầu tiên (1993 - 2013). Đến dự có Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng; Chủ tịch Tổng công ty Bưu điện Đỗ Ngọc Bình cùng toàn thể cán bộ Tạp chí Tem và nhiều thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên đã công tác tại Tạp chí Tem 20 năm qua.
“Vạn sự khởi đầu”, mùa Xuân năm Quý Dậu - 1993, trong xu thế phát triển của đất nước, sự chuyển đổi cơ cấu của ngành Bưu điện, trước nhu cầu của phong trào sưu tập tem, Tạp chí Tem, cơ quan của Hội Tem Việt Nam, tiếng nói của Hội viên trong cả nước, được cấp phép hoạt động và ra số báo đầu tiên, góp tiếng nói văn hóa tem trong làng báo chí Cách mạng Việt Nam.
20 năm qua, được sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Thông tin và Truyền thông, sự chỉ đạo của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam, Tạp chí Tem luôn giữ vững định hướng, tôn chỉ mục đích là thông tin, tuyên truyền, quảng bá tem Bưu chính.
Với gần 20 chuyên mục, Tạp chí Tem đã hướng dẫn người chơi tem cách thức sưu tập, trưng bày, tham gia triển lãm trong nước, quốc tế, hướng dẫn tổ chức hoạt động Hội, hoạt động Câu lạc bộ sưu tập tem và trên cơ sở đó đã đóng góp cho việc phát triển phong trào sưu tập trong cả nước, góp phần nâng cao dân trí, thẩm mỹ hội họa, xây dựng và phát triển sân chơi văn hóa lành mạnh, trí tuệ, nhất là đối với lớp trẻ.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng nhân dịp này đã chúc mừng Tạp chí Tem 20 năm phát hành số đầu tiên và đánh giá cao những đóng góp, đam mê và tận tuy cho sự phát triển cho Tạp chí Tem, Hội Tem Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua của đội ngũ cán bộ Tạp chí. Thứ trưởng cũng mong muốn trong thời gian tới tạp chí Tem tiếp tục là kênh thông tin quảng bá cho sự nghiệp Tem, Hội Tem và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Tổng Biên tập Tạp chí Tem Nguyễn Thị Hồng Vĩnh cho biết bằng những bài viết về con tem bưu chính, về thú chơi tem, về người chơi tem và về Bưu điện Việt Nam, người làm ra con tem bưu chính, về các Bưu điện tỉnh, thành phố là nơi cung ứng tem cho hoạt động bưu chính công ích của Nhà nước… Tạp chí đã có những tác động tích cực và hiệu quả đến chất lượng thiết kế, sản xuất kinh doanh và cũng như phát triển tem Bưu chính.
Xúc động nhớ lại buổi khởi đầu của Tạp chí Tem, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Tem Vũ Văn Tỵ cho biết thật vô cùng thiếu thốn, nhưng nhân tài như hoa nở mùa xuân, những bài chính luận có bác Hoàng Tùng, Bác Vũ Khiêu, Bác Nguyệt Tú; những nội dung văn hóa, tư tưởng có bác Tô Hoài, bác Giang Quân, những vần thơ sâu lắng có bác Vũ Khiêu, những trang bình luận về tem có bác Đức Vân, những nét xuân trong câu đối Tết có bác Lỗ Công, Nguyễn Văn Bách, làm cho Tạp chí Tem sớm có vị thế trong giới báo chí, được độc giả đón đọc. Chúng ta trân trọng với lớp cán bộ xây dựng, đóng góp công sức cho Tạp chí Tem, ở buổi ban đầu, đã qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khi về hưu lại bắt tay vào mặt trân tư tưởng văn hóa tem, tiêu biểu là bác Trương Văn Thoan, bác Lê Quang Huy, Trần Anh Chương, Đoàn Quang Vinh cùng với cán bộ kế tiếp để lại bộ sưu tập 122 số báo, đủ thể loại về một Việt Nam, đất nước - con người trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, đậm đà về văn hóa – xã hội nâng tầm tem bưu chính qua từng trang báo.

Với những nỗ lực không mệt mỏi, qua hơn 20 năm hoạt động, Tạp chí Tem đã nhận được Bằng khen của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam và đoạt giải tại nhiều Hội Báo Xuân. Tổng kết 10 năm (1993 - 2003), Tạp chí Tem được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III. Trong các Triển lãm Tem quốc tế và thế giới, Tạp chí Tem nhiều lần tham gia và đã đạt được nhiều giải Bạc như ở Triển lãm Tem Thế giới tại Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, đặc biệt Triển lãm Tem quốc tế tại Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất 2006 và tại Triển lãm Tem thế giới PhilaNippon 2011, Tạp chí đã đoạt giải Bạc lớn.
“Vạn sự khởi đầu”, mùa Xuân năm Quý Dậu - 1993, trong xu thế phát triển của đất nước, sự chuyển đổi cơ cấu của ngành Bưu điện, trước nhu cầu của phong trào sưu tập tem, Tạp chí Tem, cơ quan của Hội Tem Việt Nam, tiếng nói của Hội viên trong cả nước, được cấp phép hoạt động và ra số báo đầu tiên, góp tiếng nói văn hóa tem trong làng báo chí Cách mạng Việt Nam.
20 năm qua, được sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Thông tin và Truyền thông, sự chỉ đạo của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam, Tạp chí Tem luôn giữ vững định hướng, tôn chỉ mục đích là thông tin, tuyên truyền, quảng bá tem Bưu chính.
Với gần 20 chuyên mục, Tạp chí Tem đã hướng dẫn người chơi tem cách thức sưu tập, trưng bày, tham gia triển lãm trong nước, quốc tế, hướng dẫn tổ chức hoạt động Hội, hoạt động Câu lạc bộ sưu tập tem và trên cơ sở đó đã đóng góp cho việc phát triển phong trào sưu tập trong cả nước, góp phần nâng cao dân trí, thẩm mỹ hội họa, xây dựng và phát triển sân chơi văn hóa lành mạnh, trí tuệ, nhất là đối với lớp trẻ.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Chủ tịch danh dự Hội Tem Việt Nam Nguyễn Thành Hưng nhân dịp này đã chúc mừng Tạp chí Tem 20 năm phát hành số đầu tiên và đánh giá cao những đóng góp, đam mê và tận tuy cho sự phát triển cho Tạp chí Tem, Hội Tem Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua của đội ngũ cán bộ Tạp chí. Thứ trưởng cũng mong muốn trong thời gian tới tạp chí Tem tiếp tục là kênh thông tin quảng bá cho sự nghiệp Tem, Hội Tem và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Tổng Biên tập Tạp chí Tem Nguyễn Thị Hồng Vĩnh cho biết bằng những bài viết về con tem bưu chính, về thú chơi tem, về người chơi tem và về Bưu điện Việt Nam, người làm ra con tem bưu chính, về các Bưu điện tỉnh, thành phố là nơi cung ứng tem cho hoạt động bưu chính công ích của Nhà nước… Tạp chí đã có những tác động tích cực và hiệu quả đến chất lượng thiết kế, sản xuất kinh doanh và cũng như phát triển tem Bưu chính.
Xúc động nhớ lại buổi khởi đầu của Tạp chí Tem, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Tem Vũ Văn Tỵ cho biết thật vô cùng thiếu thốn, nhưng nhân tài như hoa nở mùa xuân, những bài chính luận có bác Hoàng Tùng, Bác Vũ Khiêu, Bác Nguyệt Tú; những nội dung văn hóa, tư tưởng có bác Tô Hoài, bác Giang Quân, những vần thơ sâu lắng có bác Vũ Khiêu, những trang bình luận về tem có bác Đức Vân, những nét xuân trong câu đối Tết có bác Lỗ Công, Nguyễn Văn Bách, làm cho Tạp chí Tem sớm có vị thế trong giới báo chí, được độc giả đón đọc. Chúng ta trân trọng với lớp cán bộ xây dựng, đóng góp công sức cho Tạp chí Tem, ở buổi ban đầu, đã qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khi về hưu lại bắt tay vào mặt trân tư tưởng văn hóa tem, tiêu biểu là bác Trương Văn Thoan, bác Lê Quang Huy, Trần Anh Chương, Đoàn Quang Vinh cùng với cán bộ kế tiếp để lại bộ sưu tập 122 số báo, đủ thể loại về một Việt Nam, đất nước - con người trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, đậm đà về văn hóa – xã hội nâng tầm tem bưu chính qua từng trang báo.

Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng trao tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho 8 cán bộ của Tạp chí Tem
Với những nỗ lực không mệt mỏi, qua hơn 20 năm hoạt động, Tạp chí Tem đã nhận được Bằng khen của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Ban Đối ngoại Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Tem Việt Nam và đoạt giải tại nhiều Hội Báo Xuân. Tổng kết 10 năm (1993 - 2003), Tạp chí Tem được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III. Trong các Triển lãm Tem quốc tế và thế giới, Tạp chí Tem nhiều lần tham gia và đã đạt được nhiều giải Bạc như ở Triển lãm Tem Thế giới tại Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, đặc biệt Triển lãm Tem quốc tế tại Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất 2006 và tại Triển lãm Tem thế giới PhilaNippon 2011, Tạp chí đã đoạt giải Bạc lớn.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
Kiên Giang có 138 điểm Bưu điện Văn hóa xã
Hiện toàn tỉnh Kiên Giang có 138 điểm Bưu điện - Văn hóa xã (BĐ-VHX), hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đều có điểm BĐ-VHX.
Theo báo cáo của Bưu điện tỉnh tính đến tháng 3.2013, 35 điểm BĐ-VHX ở các xã được tỉnh chọn xây dựng nông thôn mới đến 2015 có 6.862 quyển sách, nhưng không còn sử dụng được 948 quyển, số còn lại trung bình mỗi điểm có 168 quyển sách để phục vụ. Các đầu sách tại BĐ-VHX có nội dung không phong phú, phần lớn đã cũ, không đáp ứng nhu cầu của người dân.
Theo đó, năm 2013, Sở VHTTDL Kiên Giang sẽ cung cấp 3.000 đầu sách cho 15 điểm BĐ-VHX thuộc các xã nông thôn mới; năm 2014, cung cấp cho 20 xã tiếp theo với đầu sách tương ứng, từ 2015 đến 2020 sẽ cung cấp cho tất cả các xã còn lại trên địa bàn toàn tỉnh.
Theo báo cáo của Bưu điện tỉnh tính đến tháng 3.2013, 35 điểm BĐ-VHX ở các xã được tỉnh chọn xây dựng nông thôn mới đến 2015 có 6.862 quyển sách, nhưng không còn sử dụng được 948 quyển, số còn lại trung bình mỗi điểm có 168 quyển sách để phục vụ. Các đầu sách tại BĐ-VHX có nội dung không phong phú, phần lớn đã cũ, không đáp ứng nhu cầu của người dân.
Theo đó, năm 2013, Sở VHTTDL Kiên Giang sẽ cung cấp 3.000 đầu sách cho 15 điểm BĐ-VHX thuộc các xã nông thôn mới; năm 2014, cung cấp cho 20 xã tiếp theo với đầu sách tương ứng, từ 2015 đến 2020 sẽ cung cấp cho tất cả các xã còn lại trên địa bàn toàn tỉnh.
Theo báo Văn hóa
Dự án BMGF VN rất cần vai trò của địa phương

Đắk Nông là một trong những tỉnh triển khai Dự án BMGF VN đạt kết quả tốt.
Cho đến thời điểm này, Dự án BMGF VN đã chính thức triển khai tại 28 tỉnh với mục tiêu mang lại cơ hội "Thay đổi cuộc sống" cho người dân ở những địa phương thụ hưởng dự án. Cơ hội đó được hiện thực hóa nhanh hay chậm, ít hay nhiều, không thể không nhắc đến vai trò của chính quyền địa phương các cấp.
Từ câu chuyện của các địa phương…
Sơ kết bước 1, giai đoạn 1 của Dự án“Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ (Dự án BMGF-VN), Ban Quản lý Dự án đã tổ chức trao thưởng cho các thư viện công cộng và điểm BĐVHX có thời gian truy nhập online cao nhất. Tỉnh Sóc Trăng được ghi danh ở những hạng mục giải quan trọng nhất, đó là 1 trong 3 tỉnh có số giờ online trung bình của 1 điểm cao nhất (672 giờ/máy). Ngoài ra, Thư viện tỉnh Sóc Trăng cũng là thư viện tỉnh có tổng số giờ online cao nhất trong tổng số 12 thư viện với tổng số giờ truy nhập là gần 24.000 giờ. Ở cấp xã, điểm BĐVHX Gia Hòa 1, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng là 1 trong 5 điểm có số giờ online cao nhất.
Chia sẻ kinh nghiệm triển khai dự án trong buổi lễ Sơ kết diễn ra tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Tùng, Giám đốc Thư viện tỉnh Sóc Trăng cho biết, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến dự án được triển khai thành công tại Sóc Trăng là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo địa phương. Sau khi có thông tin tiếp nhận dự án, Tỉnh ủy Sóc Trăng, UBND các cấp đã nhanh chóng xây dựng kế hoạch phối hợp thực hiện dự án, trong đó có nội dung đảm bảo nguồn vốn đối ứng của địa phương tới hơn 5 tỷ đồng. Ngoài ra, Sóc Trăng cũng kết hợp triển khai dự án với phát triển thư viện xã nông thôn mới. Việc đưa máy tính, Internet vào các điểm thư viện xã đã đem lại diện mạo mới cho hệ thống thư viện tại địa phương, ngày càng thu hút sự quan tâm của người dân vùng nông thôn Sóc Trăng, góp phần thực hiện mục tiêu về xây dựng nông thôn mới.
Giống như Sóc Trăng, Đắk Nông cũng được ghi nhận là một trong những địa phương có sự phối hợp rất tích cực trong quá trình triển khai dự án. Nhận thấy vai trò quan trọng của cán bộ trực điểm như là cầu nối trực tiếp giữa Dự án với người dân, Đắk Nông đã có sáng kiến trợ cấp cho nhân viên của các điểm BĐVHX, nơi cuộc sống của người dân nói chung còn hết sức khó khăn. Số tiền 400.000 đồng/người/điểm chưa phải là lớn, chỉ một phần giảm bớt gánh nặng mưu sinh cho cán bộ điểm song nó có ý nghĩa động viên tinh thần rất lớn, giúp cán bộ điểm BĐVHX thêm gắn bó với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc khuyến khích và hướng dẫn người dân tại địa phương tiếp cận và sử dụng máy tính, Internet một cách tích cực hơn. Kết quả là nhiều điểm truy nhập tuyến xã của Đắk Nông có số người đến sử dụng các dịch vụ Internet ngày một đông như BĐVHX Thuận Hạnh (Đắk Mil), Quảng Sơn (Đắk Glong), Quảng Tín (Đắk Rlấp)… Những nỗ lực của Đắk Nông càng được đánh giá cao khi so mới mặt bằng chung của các tỉnh tiếp nhận dự án, Đắk N
ông là một tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn.
Đến sự khác biệt của dự án tại Việt Nam
Theo ông Phan Hữu Phong, Giám đốc Ban Quản lý Dự án BMGF-VN, so với các nước đang triển khai dự án tương tự trong chương trình Thư viện toàn cầu do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ, dự án tại Việt Nam có sự khác biệt là liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, từ Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, UBND các cấp, đến các doanh nghiệp như VNPost, VNPT, Viettel cũng trực tiếp tham gia. Dự án tại Việt Nam cũng có quy mô triển khai sâu rộng nhất, xuống tận cấp xã (trong khi dự án tại các nước khác chỉ triển khai đến tương đương cấp huyện). Với diện triển khai rộng, phức tạp như vậy, sự thành công của dự án trong bước 1, giai đoạn 2 vừa qua của Việt Nam đã được các nước đánh giá cao.
Bà Deborah Jacobs, Giám đốc chương trình Thư viện toàn cầu cũng phải dùng đến cụm từ “thành công đáng kinh ngạc” khi đánh giá về hiệu quả của dự án tại Việt Nam. Và chắc chắn, chúng ta đã không thể có được thành công này nếu không có sự chỉ đạo, quan tâm nhất quán từ Trung ương đến địa phương. Thực tế đã cho thấy, địa phương mà lãnh đạo có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của dự án, có sự quan tâm chỉ đạo sát sao, có những biện pháp hỗ trợ tích cực cũng như tháo gỡ khó khăn kịp thời thì sẽ đạt hiệu quả cao. Hiệu quả đó không chỉ thể hiện qua các chỉ số về truy nhập của hệ thống quan sát Observatory, mà còn có thể cảm nhận rõ nét qua những đổi thay trong cuộc sống của người dân.
Hiện nay, Dự án BMGF-VN đã chính thức triển khai bước 2, giai đoạn 2 tại 16 tỉnh, đưa tổng số tỉnh tham gia dự án lên đến 28 tỉnh. Thông qua việc trang bị máy tính có kết nối Internet cho các điểm thư viện công cộng cấp tỉnh, huyện, xã và điểm BĐVHX, Dự án sẽ mang đến cơ hội tiếp cận máy tính, Internet cho hàng trăm nghìn người dân, giúp họ được thụ hưởng những lợi ích mà CNTT mang lại. Để đạt được mục tiêu này, sự vào cuộc của chính quyền địa phương các cấp có ý nghĩa rất lớn, góp phần biến những cơ hội mà dự án mang tới thành sự đổi thay thật sự trong cuộc sống của người dân địa phương.
Từ câu chuyện của các địa phương…
Sơ kết bước 1, giai đoạn 1 của Dự án“Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ (Dự án BMGF-VN), Ban Quản lý Dự án đã tổ chức trao thưởng cho các thư viện công cộng và điểm BĐVHX có thời gian truy nhập online cao nhất. Tỉnh Sóc Trăng được ghi danh ở những hạng mục giải quan trọng nhất, đó là 1 trong 3 tỉnh có số giờ online trung bình của 1 điểm cao nhất (672 giờ/máy). Ngoài ra, Thư viện tỉnh Sóc Trăng cũng là thư viện tỉnh có tổng số giờ online cao nhất trong tổng số 12 thư viện với tổng số giờ truy nhập là gần 24.000 giờ. Ở cấp xã, điểm BĐVHX Gia Hòa 1, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng là 1 trong 5 điểm có số giờ online cao nhất.
Chia sẻ kinh nghiệm triển khai dự án trong buổi lễ Sơ kết diễn ra tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Tùng, Giám đốc Thư viện tỉnh Sóc Trăng cho biết, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến dự án được triển khai thành công tại Sóc Trăng là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo địa phương. Sau khi có thông tin tiếp nhận dự án, Tỉnh ủy Sóc Trăng, UBND các cấp đã nhanh chóng xây dựng kế hoạch phối hợp thực hiện dự án, trong đó có nội dung đảm bảo nguồn vốn đối ứng của địa phương tới hơn 5 tỷ đồng. Ngoài ra, Sóc Trăng cũng kết hợp triển khai dự án với phát triển thư viện xã nông thôn mới. Việc đưa máy tính, Internet vào các điểm thư viện xã đã đem lại diện mạo mới cho hệ thống thư viện tại địa phương, ngày càng thu hút sự quan tâm của người dân vùng nông thôn Sóc Trăng, góp phần thực hiện mục tiêu về xây dựng nông thôn mới.
Giống như Sóc Trăng, Đắk Nông cũng được ghi nhận là một trong những địa phương có sự phối hợp rất tích cực trong quá trình triển khai dự án. Nhận thấy vai trò quan trọng của cán bộ trực điểm như là cầu nối trực tiếp giữa Dự án với người dân, Đắk Nông đã có sáng kiến trợ cấp cho nhân viên của các điểm BĐVHX, nơi cuộc sống của người dân nói chung còn hết sức khó khăn. Số tiền 400.000 đồng/người/điểm chưa phải là lớn, chỉ một phần giảm bớt gánh nặng mưu sinh cho cán bộ điểm song nó có ý nghĩa động viên tinh thần rất lớn, giúp cán bộ điểm BĐVHX thêm gắn bó với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc khuyến khích và hướng dẫn người dân tại địa phương tiếp cận và sử dụng máy tính, Internet một cách tích cực hơn. Kết quả là nhiều điểm truy nhập tuyến xã của Đắk Nông có số người đến sử dụng các dịch vụ Internet ngày một đông như BĐVHX Thuận Hạnh (Đắk Mil), Quảng Sơn (Đắk Glong), Quảng Tín (Đắk Rlấp)… Những nỗ lực của Đắk Nông càng được đánh giá cao khi so mới mặt bằng chung của các tỉnh tiếp nhận dự án, Đắk N
ông là một tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn.
Đến sự khác biệt của dự án tại Việt Nam
Theo ông Phan Hữu Phong, Giám đốc Ban Quản lý Dự án BMGF-VN, so với các nước đang triển khai dự án tương tự trong chương trình Thư viện toàn cầu do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ, dự án tại Việt Nam có sự khác biệt là liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, từ Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, UBND các cấp, đến các doanh nghiệp như VNPost, VNPT, Viettel cũng trực tiếp tham gia. Dự án tại Việt Nam cũng có quy mô triển khai sâu rộng nhất, xuống tận cấp xã (trong khi dự án tại các nước khác chỉ triển khai đến tương đương cấp huyện). Với diện triển khai rộng, phức tạp như vậy, sự thành công của dự án trong bước 1, giai đoạn 2 vừa qua của Việt Nam đã được các nước đánh giá cao.
Bà Deborah Jacobs, Giám đốc chương trình Thư viện toàn cầu cũng phải dùng đến cụm từ “thành công đáng kinh ngạc” khi đánh giá về hiệu quả của dự án tại Việt Nam. Và chắc chắn, chúng ta đã không thể có được thành công này nếu không có sự chỉ đạo, quan tâm nhất quán từ Trung ương đến địa phương. Thực tế đã cho thấy, địa phương mà lãnh đạo có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của dự án, có sự quan tâm chỉ đạo sát sao, có những biện pháp hỗ trợ tích cực cũng như tháo gỡ khó khăn kịp thời thì sẽ đạt hiệu quả cao. Hiệu quả đó không chỉ thể hiện qua các chỉ số về truy nhập của hệ thống quan sát Observatory, mà còn có thể cảm nhận rõ nét qua những đổi thay trong cuộc sống của người dân.
Hiện nay, Dự án BMGF-VN đã chính thức triển khai bước 2, giai đoạn 2 tại 16 tỉnh, đưa tổng số tỉnh tham gia dự án lên đến 28 tỉnh. Thông qua việc trang bị máy tính có kết nối Internet cho các điểm thư viện công cộng cấp tỉnh, huyện, xã và điểm BĐVHX, Dự án sẽ mang đến cơ hội tiếp cận máy tính, Internet cho hàng trăm nghìn người dân, giúp họ được thụ hưởng những lợi ích mà CNTT mang lại. Để đạt được mục tiêu này, sự vào cuộc của chính quyền địa phương các cấp có ý nghĩa rất lớn, góp phần biến những cơ hội mà dự án mang tới thành sự đổi thay thật sự trong cuộc sống của người dân địa phương.
Theo ICTnews
Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai nhiệm vụ năm 2014

Toàn cảnh Hội nghị
Ngày 26/12/2013, tại trụ sở Bộ TT&TT 18 Nguyễn Du, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2014. Tham dự Hội nghị có các đồng chí: Trương Minh Tuấn, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; các đồng chí Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá; nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp; đại diện các Bộ ngành Trung ương; đại diện Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Xuất bản Việt Nam… cùng đại diện Lãnh đạo các Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh, thành phố; các doanh nghiệp viễn thông và các cơ quan thông tấn báo chí trung ương và Hà Nội.
Năm 2013, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, chưa ổn định và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; kinh tế trong nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo, điều hành kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ và ủng hộ của các Bộ, ngành, địa phương; cùng với sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên của cán bộ, công chức, viên chức toàn Ngành, Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị và toàn diện trên tất cả các mặt kế hoạch công tác năm 2013, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Ngành Thông tin và Truyền thông trên các mặt trận chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và góp phần cùng đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới.
Trong đó, tiêu biểu là công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh tập trung hoàn thiện. Bộ đã hoàn thiện và trình để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 19 văn bản, trong đó có 07 Nghị định của Chính phủ, 12 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bộ đã trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 21 đề án thuộc Chương trình công tác năm 2013, 14 đề án phát sinh ngoài Chương trình...
Lĩnh vực Báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình và thông tin đối ngoại vận động theo đúng định hướng của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các cơ quan báo chí, xuất bản đã thông tin, tuyên truyền tốt các chủ trương, chính sách, sự kiện chính trị lớn của đất nước, đặc biệt là việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về biển đảo. Đưa tin chính xác, phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; phân tích, nêu rõ được quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời phản bác hiệu quả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; qua đó củng cố và tăng thêm niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Lĩnh vực Bưu chính, viễn thông và Công nghệ thông tin tiếp tục phát triển; hoạt động đối ngoại được chú trọng với nhiều hoạt động hợp tác quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại; tích cực tham gia đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam - EU, ITA2, rà soát việc thực hiện các chính sách thương mại theo cam kết với WTO...
Đặc biệt, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã triển khai quyết liệt công tác chỉ đạo tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực thông tin và truyền thông. Chỉ đạo tốt hoạt động và kiện toàn mô hình tổ chức của VNPost sau khi tách ra khỏi VNPT; ban hành Đề án Tái cơ cấu Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC giai đoạn 2012-2015 và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Bộ đã tập trung xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tái cơ cấu VNPT... Tổng doanh thu viễn thông ước đạt 9,9 tỷ USD. Tổng số thuê bao điện thoại đạt 105 triệu thuê bao, trong đó di động chiếm 93%; hơn 31 triệu người sử dụng Internet; tổng số thuê bao Internet băng rộng (xDSL) đạt hơn 5,17 triệu thuê bao... Doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục đạt mức cao, ước tính đạt hơn 20 tỷ USD, trong đó khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp hơn 90% giá trị xuất khẩu...
Hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương, hội, hiệp hội được đẩy mạnh. Các Sở TT&TT đã chủ động tham mưu cho địa phương ban hành nhiều chương trình, kế hoạch và những nội dung liên quan đến lĩnh vực thông tin và truyền thông mang tầm chiến lược, cụ thể, rõ ràng và phù hợp với thực tế...
Bên cạnh các mặt đã đạt được vẫn còn hạn chế cần khắc khục như: Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ chưa hoàn thành đúng kế hoạch; Một số báo, trang thông tin điện tử còn chạy theo việc đưa tin giật gân, câu khách, thậm chí còn thông tin sai sự thật; Tình trạng in lậu xuất bản phẩm vẫn diễn biến phức tạp, vi phạm pháp luật về quyền tác giả; Việc quản lý thuê bao di động trả trước còn nhiều khó khăn; Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin trên Internet đối mặt với nhiều khó khăn.
Về phương hướng trong năm 2014, Ngành Thông tin và Truyền thông tiếp tục đẩy mạnh Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; triển khai có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mà các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đề ra; bám sát Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016. Trong đó, tập trung triển khai thực hiện tốt Chương trình công tác của Chính phủ, các chương trình hành động của Bộ ban hành. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước từ Trung ương tới địa phương; hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, bộ máy, nhân lực đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước; chỉ đạo thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường; tăng cường cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông trên tất
cả các lĩnh vực quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đưa ra 10 công tác trọng tâm trong năm 2014.
Tại Hội nghị, trong chương trình buổi sáng, đã có 9 đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực Thông tin và Truyền thông, các Sở TT&TT, các Hội, Hiệp hội đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ và kiến nghị đề xuất với Bộ về các lĩnh vực đang được xã hội quan tâm để giúp các đơn vị hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao trong năm 2014.
Hội nghị sẽ tiếp tục chương trình nghị sự trong buổi chiều nay 26/12/2013.
Năm 2013, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, chưa ổn định và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; kinh tế trong nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo, điều hành kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ và ủng hộ của các Bộ, ngành, địa phương; cùng với sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên của cán bộ, công chức, viên chức toàn Ngành, Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị và toàn diện trên tất cả các mặt kế hoạch công tác năm 2013, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Ngành Thông tin và Truyền thông trên các mặt trận chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và góp phần cùng đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới.
Trong đó, tiêu biểu là công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh tập trung hoàn thiện. Bộ đã hoàn thiện và trình để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 19 văn bản, trong đó có 07 Nghị định của Chính phủ, 12 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bộ đã trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 21 đề án thuộc Chương trình công tác năm 2013, 14 đề án phát sinh ngoài Chương trình...
Lĩnh vực Báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình và thông tin đối ngoại vận động theo đúng định hướng của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các cơ quan báo chí, xuất bản đã thông tin, tuyên truyền tốt các chủ trương, chính sách, sự kiện chính trị lớn của đất nước, đặc biệt là việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về biển đảo. Đưa tin chính xác, phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; phân tích, nêu rõ được quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời phản bác hiệu quả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; qua đó củng cố và tăng thêm niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Lĩnh vực Bưu chính, viễn thông và Công nghệ thông tin tiếp tục phát triển; hoạt động đối ngoại được chú trọng với nhiều hoạt động hợp tác quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại; tích cực tham gia đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam - EU, ITA2, rà soát việc thực hiện các chính sách thương mại theo cam kết với WTO...
Đặc biệt, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã triển khai quyết liệt công tác chỉ đạo tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực thông tin và truyền thông. Chỉ đạo tốt hoạt động và kiện toàn mô hình tổ chức của VNPost sau khi tách ra khỏi VNPT; ban hành Đề án Tái cơ cấu Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC giai đoạn 2012-2015 và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Bộ đã tập trung xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tái cơ cấu VNPT... Tổng doanh thu viễn thông ước đạt 9,9 tỷ USD. Tổng số thuê bao điện thoại đạt 105 triệu thuê bao, trong đó di động chiếm 93%; hơn 31 triệu người sử dụng Internet; tổng số thuê bao Internet băng rộng (xDSL) đạt hơn 5,17 triệu thuê bao... Doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục đạt mức cao, ước tính đạt hơn 20 tỷ USD, trong đó khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp hơn 90% giá trị xuất khẩu...
Hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương, hội, hiệp hội được đẩy mạnh. Các Sở TT&TT đã chủ động tham mưu cho địa phương ban hành nhiều chương trình, kế hoạch và những nội dung liên quan đến lĩnh vực thông tin và truyền thông mang tầm chiến lược, cụ thể, rõ ràng và phù hợp với thực tế...
Bên cạnh các mặt đã đạt được vẫn còn hạn chế cần khắc khục như: Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ chưa hoàn thành đúng kế hoạch; Một số báo, trang thông tin điện tử còn chạy theo việc đưa tin giật gân, câu khách, thậm chí còn thông tin sai sự thật; Tình trạng in lậu xuất bản phẩm vẫn diễn biến phức tạp, vi phạm pháp luật về quyền tác giả; Việc quản lý thuê bao di động trả trước còn nhiều khó khăn; Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin trên Internet đối mặt với nhiều khó khăn.
Về phương hướng trong năm 2014, Ngành Thông tin và Truyền thông tiếp tục đẩy mạnh Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; triển khai có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mà các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đề ra; bám sát Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016. Trong đó, tập trung triển khai thực hiện tốt Chương trình công tác của Chính phủ, các chương trình hành động của Bộ ban hành. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước từ Trung ương tới địa phương; hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, bộ máy, nhân lực đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước; chỉ đạo thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường; tăng cường cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông trên tất
cả các lĩnh vực quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đưa ra 10 công tác trọng tâm trong năm 2014.
Tại Hội nghị, trong chương trình buổi sáng, đã có 9 đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực Thông tin và Truyền thông, các Sở TT&TT, các Hội, Hiệp hội đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ và kiến nghị đề xuất với Bộ về các lĩnh vực đang được xã hội quan tâm để giúp các đơn vị hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao trong năm 2014.
Hội nghị sẽ tiếp tục chương trình nghị sự trong buổi chiều nay 26/12/2013.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
Những thành tựu nổi bật của Ngành Thông tin và Truyền thông năm 2013
Theo báo cáo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2014, năm 2013 Bộ Thông tin và Truyền thông đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trên tất cả các lĩnh vực quản lý.
Báo cáo cho biết, năm 2013, mặc dù chịu ảnh hưởng do khó khăn chung của nền kinh tế, nhưng ngành TTTT vẫn tiếp tục được củng cố và phát triển. Bộ TTTT đã nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra. Công tác quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được tăng cường và phát huy hiệu quả trên cả 5 lĩnh vực báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông và CNTT.
Triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều cơ chế, chính sách mới, sát với yêu cầu thực tiễn đã được ban hành; hành lang pháp lý tiếp tục được hoàn thiện và mở rộng; các quy hoạch, chiến lược trong lĩnh vực thông tin và truyền thông được tập trung nghiên cứu xây dựng và định hướng theo chiến lược phát triển chung của quốc gia. Trong năm qua, số lượng đề án được Bộ TTTT trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đạt mức cao nhất từ trước đến nay với tổng số 35 đề án. Bao gồm các dự thảo Chiến lược phát triển thông tin; các quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản, in và phát hành; các dự thảo nghị định hướng dẫn Luật xuất bản; chế độ nhuận bút trong hoạt động báo chí, xuất bản; quản lý đầu tư ứng dụng CNTT. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 07 nghị định và 12 quyết định. Trong đó, các quy định, chính sách mới về khu CNTT tập trung; quản lý dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; xử phạt vi phạm hành chính trên cả 5 lĩnh vực chuyên ngành; tổ chức và hoạt động của Thanh tra thông tin và truyền thông đã được thể chế hóa, tạo hành lang pháp lý rõ ràng và minh bạch. Bên cạnh đó, Bộ đã tập trung nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật an toàn thông tin, ban hành 21 thông tư và thông tư liên tịch, hoàn thành việc hợp nhất văn bản giai đoạn 1 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Nhiều văn bản quản lý, chỉ đạo điều hành được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn, triển khai hiệu quả các giải pháp, thúc đẩy lĩnh vực thông tin và truyền thông tiếp tục phát triển trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, phải kể đến Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Việc lấy ý kiến góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong toàn ngành TTTT được thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm với nhiều ý kiến tâm huyết.
Hoạt động báo chí, xuất bản tiếp tục vận động theo đúng định hướng của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các cơ quan báo chí, xuất bản đã thông tin, tuyên truyền tốt các chủ trương, chính sách, sự kiện chính trị lớn của đất nước, đặc biệt là việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai. Đưa tin chính xác, phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; phân tích, nêu rõ được quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời phản bác hiệu quả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; qua đó củng cố và tăng thêm niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Báo chí tiếp tục phát triển về số lượng, chất lượng, hình thức và nội dung. Đến nay, toàn quốc có 838 cơ quan báo chí in với 1.111 ấn phẩm, trong đó các cơ quan Trung ương có 86 báo, 507 tạp chí; địa phương có 113 báo, 132 tạp chí; có 70 báo điện tử, 19 tạp chí điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí.
Mạng lưới phát thanh, truyền hình có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 03 đài phủ sóng mặt đất toàn quốc, gồm có Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC; 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương. Hiện tại, Việt Nam có 178 kênh chương trình phát thanh và truyền hình quảng bá, gồm 103 kênh chương trình truyền hình, 75 kênh chương trình phát thanh. Nhiều chương trình phát thanh truyền hình quốc gia và một số chương trình phát thanh, truyền hình quảng bá khác được phát sóng trên mạng Internet đến các khu vực và các nước trên thế giới phục vụ thông tin đối ngoại. Bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền tiếp tục được đầu tư, phát triển. Riêng 04 cơ quan báo hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh) đã sản xuất 73 kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, trên hệ thống truyền hình trả tiền hiện
có 75 kênh truyền hình nước ngoài phục vụ 4,4 triệu thuê bao trên toàn quốc.
Ngành Xuất bản vẫn duy trì được chất lượng sản phẩm và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Ngành đã xuất bản được gần 25.000 cuốn sách, với 274 triệu bản; xuất bản gần 1.000 loại văn hóa phẩm, với 15 triệu bản, trong đó xuất bản gần 300 mẫu lịch với 5,5 triệu bản. Ngành In dự kiến đạt khoảng 1.000 tỷ trang in 13x19cm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 21 triệu USD. Trong đó, nhập khẩu 50 triệu bản sách, 7,2 triệu tờ báo, tạp chí, kim ngạch nhập khẩu đạt 18 triệu USD; xuất khẩu 350.000 bản sách, 5,5 triệu tờ báo, tạp chí. Tổng số sách phát hành là 369 triệu bản; tổng số văn hoá phẩm phát hành là 100 triệu bản; tổng doanh thu đạt 2.600 tỷ đồng.
Công tác quản lý nhà nước về viễn thông ngày càng được tăng cường, tạo điều kiện cho thị trường viễn thông phát triển bền vững. Bộ đã chỉ đạo thanh tra trên diện rộng đối với các thuê bao di động trả trước; ban hành Đề án triển khai dịch vụ chuyển mạng thông tin di động giữ nguyên số thuê bao. Hệ thống thông tin liên lạc phục vụ chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước và công tác phòng, chống lụt, bão đảm bảo thông suốt, kịp thời. Các doanh nghiệp viễn thông từng bước phát triển các dịch vụ giúp người dân được thụ hưởng nhiều sản phẩm mới. Công tác triển khai Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất đến năm 2020 được thực hiện khẩn trương với trọng tâm ở 05 thành phố lớn trong giai đoạn 1 đến năm 2015. Bên cạnh đó, nhiệm vụ thông tin nhân đạo tiếp tục được đẩy mạnh với việc thực hiện nhiều chiến dịch nhắn tin qua Cổng thông tin 1400, đặc biệt là các chương trình ủng hộ đồng bào, chiến sỹ vùng biển đảo, đồng bào vùng bị bão, lũ. Công tác quản lý thông tin trên mạng Internet được đẩy mạnh giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Nghị định 72/2013/NĐ-CP được tuyên truyền, thông báo rộng rãi tới người dân, tổ chức cả trong nước lẫn nước ngoài. Mạng IPv6 quốc gia được khai trương khi nguồn Ipv4 đang dần cạn kiệt góp phần thúc đẩy phát triển Internet tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
Hoạt động của Điểm Bưu điện - Văn hóa xã được tập trung chỉ đạo triển khai. Bộ đã ký kết Chương trình phối hợp công tác với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tăng cường hoạt động đọc sách, báo tại các Điểm này. Để ngăn chặn các thông tin sai lệch về chủ quyền đất nước, Bộ đã phối hợp các Bộ, ngành chức năng chỉ đạo ngăn chặn nhập khẩu bộ tem Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa.
Lĩnh vực CNTT luôn có sự vận động, chuyển biến tích cực. Bộ đã xây dựng, hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, tạo nền tảng phương thức phát triển mới, nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia; phát hành Sách Trắng về CNTT-TT năm 2013. Công tác ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước được đẩy mạnh. Các đề án lớn tiếp tục được chú trọng triển khai. Lần đầu tiên, công tác diễn tập, ứng cứu sự cố an toàn thông tin đã được tổ chức trên phạm vi toàn quốc và thu được kết quả khả quan, được sự đánh giá cao của các cơ quan, tổ chức tham gia.
Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã triển khai quyết liệt công tác chỉ đạo tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực thông tin và truyền thông. Chỉ đạo tốt hoạt động và kiện toàn mô hình tổ chức của VNPost sau khi tách ra khỏi VNPT; ban hành Đề án Tái cơ cấu Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC giai đoạn 2012-2015 và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Đặc biệt, Bộ đã tập trung xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tái cơ cấu VNPT; dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam.
Tổng số điểm bưu chính phục vụ là hơn 13.000 điểm, bao gồm 2.516 bưu cục, 8.117 Điểm Bưu điện - Văn hóa xã, 1.150 đại lý bưu điện và hơn 1.000 ki-ốt, thùng thư công cộng. Tổng doanh thu viễn thông ước đạt 9,9 tỷ USD. Tổng số thuê bao điện thoại đạt 105 triệu thuê bao, trong đó di động chiếm 93%; hơn 31 triệu người sử dụng Internet; tổng số thuê bao Internet băng rộng (xDSL) đạt hơn 5,17 triệu thuê bao; tổng băng thông kết nối Internet trong nước đạt 613,8Gb/s và tổng băng thông kết nối Internet quốc tế đạt 549Gb/s; hơn 263.000 tên miền “.vn” đã đăng ký và Việt Nam tiếp tục giữ vị trí số 1 Đông Nam Á về số lượng sử dụng tên miền cấp cao mã quốc gia, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 172% năm; tổng số tên miền tiếng Việt đã đăng ký đạt gần 950.000; tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp đạt trên 15,5 triệu địa chỉ. Từng bước hình thành hệ thống mạng IPv6 quốc gia theo lộ trình đề ra.
Tổng doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục đạt mức cao, ước tính đạt hơn 20 tỷ USD, trong đó khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp hơn 90% giá trị xuất khẩu. Về ứng dụng CNTT, 100% cơ quan nhà nước có Trang/Cổng thông tin điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến các loại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo nhân lực CNTT tiếp tục được duy trì ổn định với khoảng 290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo nghề về CNTT-TT.
Công tác hợp tác quốc tế được chú trọng với nhiều hoạt động hợp tác quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại; tích cực tham gia đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam - EU, ITA2, rà soát việc thực hiện các chính sách thương mại theo cam kết với WTO; ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác, triển lãm sách, ảnh, tuần phim, phát hành các bộ tem chung kỷ niệm việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước.
Sự phối hợp, thông tin hai chiều giữa Bộ với Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành, Sở TTTT được tăng cường, thường xuyên và gắn kết hơn, nhất là việc định hướng công tác và tổng hợp các kiến nghị, khó khăn của địa phương để tham mưu cho Lãnh đạo Bộ chỉ đạo, hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Sự phối hợp của Bộ với các Ban của Quốc hội trong việc trả lời kiến nghị của cử tri đã được thực hiện tốt. Đặc biệt là việc Bộ trưởng Bộ TTTT trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII rất thành công đã tạo được sự đồng thuận của đại biểu và cử tri, qua đó, làm cho nhân dân cả nước hiểu rõ hơn về các hoạt động và đóng góp của ngành TTTT đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, vai trò của ngành TTTT được khẳng định và nâng cao.
Các Sở TTTT đã chủ động tham mưu cho địa phương ban hành nhiều chương trình, kế hoạch và những nội dung liên quan đến lĩnh vực thông tin và truyền thông mang tầm chiến lược, cụ thể, rõ ràng và phù hợp với thực tế; đồng thời tích cực triển khai toàn diện công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiệu quả, thiết thực, khẳng định được vị thế của các Sở TTTT ở địa phương.
Báo cáo cho biết, năm 2013, mặc dù chịu ảnh hưởng do khó khăn chung của nền kinh tế, nhưng ngành TTTT vẫn tiếp tục được củng cố và phát triển. Bộ TTTT đã nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra. Công tác quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được tăng cường và phát huy hiệu quả trên cả 5 lĩnh vực báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông và CNTT.
Triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều cơ chế, chính sách mới, sát với yêu cầu thực tiễn đã được ban hành; hành lang pháp lý tiếp tục được hoàn thiện và mở rộng; các quy hoạch, chiến lược trong lĩnh vực thông tin và truyền thông được tập trung nghiên cứu xây dựng và định hướng theo chiến lược phát triển chung của quốc gia. Trong năm qua, số lượng đề án được Bộ TTTT trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đạt mức cao nhất từ trước đến nay với tổng số 35 đề án. Bao gồm các dự thảo Chiến lược phát triển thông tin; các quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản, in và phát hành; các dự thảo nghị định hướng dẫn Luật xuất bản; chế độ nhuận bút trong hoạt động báo chí, xuất bản; quản lý đầu tư ứng dụng CNTT. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 07 nghị định và 12 quyết định. Trong đó, các quy định, chính sách mới về khu CNTT tập trung; quản lý dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; xử phạt vi phạm hành chính trên cả 5 lĩnh vực chuyên ngành; tổ chức và hoạt động của Thanh tra thông tin và truyền thông đã được thể chế hóa, tạo hành lang pháp lý rõ ràng và minh bạch. Bên cạnh đó, Bộ đã tập trung nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật an toàn thông tin, ban hành 21 thông tư và thông tư liên tịch, hoàn thành việc hợp nhất văn bản giai đoạn 1 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Nhiều văn bản quản lý, chỉ đạo điều hành được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn, triển khai hiệu quả các giải pháp, thúc đẩy lĩnh vực thông tin và truyền thông tiếp tục phát triển trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, phải kể đến Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Việc lấy ý kiến góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong toàn ngành TTTT được thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm với nhiều ý kiến tâm huyết.
Hoạt động báo chí, xuất bản tiếp tục vận động theo đúng định hướng của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các cơ quan báo chí, xuất bản đã thông tin, tuyên truyền tốt các chủ trương, chính sách, sự kiện chính trị lớn của đất nước, đặc biệt là việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai. Đưa tin chính xác, phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; phân tích, nêu rõ được quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời phản bác hiệu quả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; qua đó củng cố và tăng thêm niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Báo chí tiếp tục phát triển về số lượng, chất lượng, hình thức và nội dung. Đến nay, toàn quốc có 838 cơ quan báo chí in với 1.111 ấn phẩm, trong đó các cơ quan Trung ương có 86 báo, 507 tạp chí; địa phương có 113 báo, 132 tạp chí; có 70 báo điện tử, 19 tạp chí điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí.
Mạng lưới phát thanh, truyền hình có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 03 đài phủ sóng mặt đất toàn quốc, gồm có Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC; 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương. Hiện tại, Việt Nam có 178 kênh chương trình phát thanh và truyền hình quảng bá, gồm 103 kênh chương trình truyền hình, 75 kênh chương trình phát thanh. Nhiều chương trình phát thanh truyền hình quốc gia và một số chương trình phát thanh, truyền hình quảng bá khác được phát sóng trên mạng Internet đến các khu vực và các nước trên thế giới phục vụ thông tin đối ngoại. Bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền tiếp tục được đầu tư, phát triển. Riêng 04 cơ quan báo hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh) đã sản xuất 73 kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, trên hệ thống truyền hình trả tiền hiện
có 75 kênh truyền hình nước ngoài phục vụ 4,4 triệu thuê bao trên toàn quốc.
Ngành Xuất bản vẫn duy trì được chất lượng sản phẩm và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Ngành đã xuất bản được gần 25.000 cuốn sách, với 274 triệu bản; xuất bản gần 1.000 loại văn hóa phẩm, với 15 triệu bản, trong đó xuất bản gần 300 mẫu lịch với 5,5 triệu bản. Ngành In dự kiến đạt khoảng 1.000 tỷ trang in 13x19cm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 21 triệu USD. Trong đó, nhập khẩu 50 triệu bản sách, 7,2 triệu tờ báo, tạp chí, kim ngạch nhập khẩu đạt 18 triệu USD; xuất khẩu 350.000 bản sách, 5,5 triệu tờ báo, tạp chí. Tổng số sách phát hành là 369 triệu bản; tổng số văn hoá phẩm phát hành là 100 triệu bản; tổng doanh thu đạt 2.600 tỷ đồng.
Công tác quản lý nhà nước về viễn thông ngày càng được tăng cường, tạo điều kiện cho thị trường viễn thông phát triển bền vững. Bộ đã chỉ đạo thanh tra trên diện rộng đối với các thuê bao di động trả trước; ban hành Đề án triển khai dịch vụ chuyển mạng thông tin di động giữ nguyên số thuê bao. Hệ thống thông tin liên lạc phục vụ chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước và công tác phòng, chống lụt, bão đảm bảo thông suốt, kịp thời. Các doanh nghiệp viễn thông từng bước phát triển các dịch vụ giúp người dân được thụ hưởng nhiều sản phẩm mới. Công tác triển khai Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất đến năm 2020 được thực hiện khẩn trương với trọng tâm ở 05 thành phố lớn trong giai đoạn 1 đến năm 2015. Bên cạnh đó, nhiệm vụ thông tin nhân đạo tiếp tục được đẩy mạnh với việc thực hiện nhiều chiến dịch nhắn tin qua Cổng thông tin 1400, đặc biệt là các chương trình ủng hộ đồng bào, chiến sỹ vùng biển đảo, đồng bào vùng bị bão, lũ. Công tác quản lý thông tin trên mạng Internet được đẩy mạnh giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Nghị định 72/2013/NĐ-CP được tuyên truyền, thông báo rộng rãi tới người dân, tổ chức cả trong nước lẫn nước ngoài. Mạng IPv6 quốc gia được khai trương khi nguồn Ipv4 đang dần cạn kiệt góp phần thúc đẩy phát triển Internet tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
Hoạt động của Điểm Bưu điện - Văn hóa xã được tập trung chỉ đạo triển khai. Bộ đã ký kết Chương trình phối hợp công tác với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tăng cường hoạt động đọc sách, báo tại các Điểm này. Để ngăn chặn các thông tin sai lệch về chủ quyền đất nước, Bộ đã phối hợp các Bộ, ngành chức năng chỉ đạo ngăn chặn nhập khẩu bộ tem Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa.
Lĩnh vực CNTT luôn có sự vận động, chuyển biến tích cực. Bộ đã xây dựng, hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, tạo nền tảng phương thức phát triển mới, nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia; phát hành Sách Trắng về CNTT-TT năm 2013. Công tác ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước được đẩy mạnh. Các đề án lớn tiếp tục được chú trọng triển khai. Lần đầu tiên, công tác diễn tập, ứng cứu sự cố an toàn thông tin đã được tổ chức trên phạm vi toàn quốc và thu được kết quả khả quan, được sự đánh giá cao của các cơ quan, tổ chức tham gia.
Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ đã triển khai quyết liệt công tác chỉ đạo tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực thông tin và truyền thông. Chỉ đạo tốt hoạt động và kiện toàn mô hình tổ chức của VNPost sau khi tách ra khỏi VNPT; ban hành Đề án Tái cơ cấu Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC giai đoạn 2012-2015 và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Đặc biệt, Bộ đã tập trung xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tái cơ cấu VNPT; dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam.
Tổng số điểm bưu chính phục vụ là hơn 13.000 điểm, bao gồm 2.516 bưu cục, 8.117 Điểm Bưu điện - Văn hóa xã, 1.150 đại lý bưu điện và hơn 1.000 ki-ốt, thùng thư công cộng. Tổng doanh thu viễn thông ước đạt 9,9 tỷ USD. Tổng số thuê bao điện thoại đạt 105 triệu thuê bao, trong đó di động chiếm 93%; hơn 31 triệu người sử dụng Internet; tổng số thuê bao Internet băng rộng (xDSL) đạt hơn 5,17 triệu thuê bao; tổng băng thông kết nối Internet trong nước đạt 613,8Gb/s và tổng băng thông kết nối Internet quốc tế đạt 549Gb/s; hơn 263.000 tên miền “.vn” đã đăng ký và Việt Nam tiếp tục giữ vị trí số 1 Đông Nam Á về số lượng sử dụng tên miền cấp cao mã quốc gia, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 172% năm; tổng số tên miền tiếng Việt đã đăng ký đạt gần 950.000; tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp đạt trên 15,5 triệu địa chỉ. Từng bước hình thành hệ thống mạng IPv6 quốc gia theo lộ trình đề ra.
Tổng doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục đạt mức cao, ước tính đạt hơn 20 tỷ USD, trong đó khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp hơn 90% giá trị xuất khẩu. Về ứng dụng CNTT, 100% cơ quan nhà nước có Trang/Cổng thông tin điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến các loại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo nhân lực CNTT tiếp tục được duy trì ổn định với khoảng 290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo nghề về CNTT-TT.
Công tác hợp tác quốc tế được chú trọng với nhiều hoạt động hợp tác quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại; tích cực tham gia đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam - EU, ITA2, rà soát việc thực hiện các chính sách thương mại theo cam kết với WTO; ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác, triển lãm sách, ảnh, tuần phim, phát hành các bộ tem chung kỷ niệm việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước.
Sự phối hợp, thông tin hai chiều giữa Bộ với Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành, Sở TTTT được tăng cường, thường xuyên và gắn kết hơn, nhất là việc định hướng công tác và tổng hợp các kiến nghị, khó khăn của địa phương để tham mưu cho Lãnh đạo Bộ chỉ đạo, hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Sự phối hợp của Bộ với các Ban của Quốc hội trong việc trả lời kiến nghị của cử tri đã được thực hiện tốt. Đặc biệt là việc Bộ trưởng Bộ TTTT trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII rất thành công đã tạo được sự đồng thuận của đại biểu và cử tri, qua đó, làm cho nhân dân cả nước hiểu rõ hơn về các hoạt động và đóng góp của ngành TTTT đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, vai trò của ngành TTTT được khẳng định và nâng cao.
Các Sở TTTT đã chủ động tham mưu cho địa phương ban hành nhiều chương trình, kế hoạch và những nội dung liên quan đến lĩnh vực thông tin và truyền thông mang tầm chiến lược, cụ thể, rõ ràng và phù hợp với thực tế; đồng thời tích cực triển khai toàn diện công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiệu quả, thiết thực, khẳng định được vị thế của các Sở TTTT ở địa phương.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
Trụ sở chính tổ chức đón Giáng sinh và chào năm mới 2014
Ngày 24/12/2013, tại trụ sở chính, nhân dịp Giáng sinh, PTI tổ chức chương trình “PTI – Chào xuân 2014” cho cán bộ nhân viên đang công tác tại Văn phòng. Đây là một trong những hoạt động thường niên của PTI mỗi dịp xuân về, với mục đích gặp gỡ cán bộ nhân viên nhân dịp cuối năm và tạo khí thế cho một năm làm việc tiếp theo. Buổi lễ năm nay có sự tham gia của ông Phạm Anh Tuấn, Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng quản trị PTI, Ban Tổng giám đốc PTI cùng hơn 130 cán bộ. Chương trình đã diễn ra trong bầu không khí tưng bừng, ấm cúng với sự tham gia của tất cả các Ban trực thuộc Văn phòng qua trò chơi “hái hoa – nhận quà” và các trò chơi tập thể khác. Buổi lễ cũng là dịp để PTI tôn vinh các nhân viên xuất sắc năm 2013 của trụ sở chính, ghi nhận sự đóng góp thầm lặng của họ đối với sự nghiệp phát triển chung.

Ban Tổng giám đốc tham gia hái hoa – nhận quà
Theo PTI
Bảo hộ quyền tác giả: Nhìn từ khung pháp lý mới
Điểm thay đổi căn bản của Nghị định 131/2013/NĐ-CP so với các Nghị định liên quan tới việc xử phạt vi phạm quyền tác giả và các quyền liên quan trước đó là mức xử phạt không dựa trên việc xác định giá trị hàng hóa bị vi phạm bản quyền mà dựa trên hành vi vi phạm.
Thực tế sau một thời gian áp dụng cho thấy những bất cập trong việc thực hiện khung phạt tiền hành chính theo giá trị hàng hóa vi phạm đối với một số hành vi xâm phạm quyền sao chép và phân phối tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm ghi hình, bản định hình chương trình phát sóng, theo Nghị định 47/2009/NĐ-CP và Nghị định số 109/2011/NĐ-CP. Do đó, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP đã thiết kế khung tiền phạt dựa vào hành vi vi phạm mà không dựa vào giá trị hàng hóa vi phạm như 2 Nghị định trước đây.
Cụ thể, quyền sao chép tác phẩm, quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là một trong những quyền tài sản mà chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 10 đến 30 triệu đồng đối với hành vi phân phối tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Phạt tiền từ 15 đến 35 triệu đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.
Một điểm mới cơ bản của Nghị định 131/2013/NĐ-CP là trước đây mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định cũ là 500 triệu đồng áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức, nay mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan đối với cá nhân là 250 triệu đồng, đối với tổ chức là 500 triệu đồng. Quy định này sẽ làm cho Nghị định 131/2013/NĐ-CP có tính khả thi cao hơn.
Ngoài ra, Nghị định 131/2013/NĐ-CP cũng có nhiều điều chỉnh đáng lưu ý khác.
Biểu diễn tác phẩm không được phép của tác giả sẽ bị phạt nặng
Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là một trong những quyền tài sản mà chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Đây là quyền do chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện.
Do đó, theo quy định tại Nghị định 131/2013/NĐ-CP, việc biểu diễn trực tiếp tác phẩm trước công chúng mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả cũng là hành vi vi phạm và có thể bị xử phạt tối đa đến 10 triệu đồng.
Trường hợp biểu diễn tác phẩm thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị phạt từ 10 đến 15 triệu đồng.
Đối với vi phạm trong phát sóng hoạt động biểu diễn, Nghị định 131/2013/NĐ-CP cũng đã đưa ra mức phạt lên đến 40 triệu đồng hành vi phát sóng hoặc truyền theo cách khác (bằng bất kỳ phương tiện nào ngoài phát sóng) đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của người biểu diễn, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng.
Nghị định số 131/2013/NĐ-CP cũng quy định mức phạt với một số hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực này như: không nêu tên hoặc nêu không đúng tên người biểu diễn trên bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; mạo danh người biểu diễn để biểu diễn tác phẩm…
Bên cạnh hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc buộc sửa lại đúng tên người biểu diễn; buộc dỡ bỏ bản sao cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.
Phải cải chính thông tin khi xuyên tạc tác phẩm của người khác
Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả là một trong những quyền nhân thân mà tác giả được hưởng theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Và Nghị định 131/2013/NĐ-CP đã quy định “Phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với hành vi tự ý sửa chữa, cắt xén tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả; Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với hành vi xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”.
Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng thông tin sai sự thật; buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu huỷ tang vật vi phạm.
Một vi phạm khác về quyền nhân thân của tác giả là việc sử dụng tác phẩm mà không nêu tên thật, bút danh tác giả, tên tác phẩm hoặc nêu không đúng tên thật hoặc bút danh tác giả, tên tác phẩm trên bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng theo quy định mới cũng sẽ bị phạt tiền tối đa đến 3 triệu đồng. Đồng thời phải sửa lại đúng tên tác giả, tác phẩm.
Sử dụng bản ghi âm, ghi hình, phải trả tiền cho chủ sở hữu
Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quyền độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện quyền phân phối đến công chúng bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Do đó, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định “Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với hành vi phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình”.
Tuy nhiên, một số trường hợp sử dụng bản ghi âm, ghi hình nhưng không phải xin phép thì phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu.
Cụ thể, các tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ quảng cáo hay không có tài trợ quảng cáo, sử dụng trong hoạt động kinh doanh thương mại đều phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng.
Trong trường hợp sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại nhưng không trả tiền cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định các mức phạt cụ thể như sau: Sử dụng nhằm mục đích thương mại trong nhà hàng, cơ sở lưu trú du lịch, cửa hàng, siêu thị: Phạt tiền từ 5 đến 10 triệu đồng; Sử dụng nhằm mục đích thương mại để phát sóng; trong lĩnh vực hàng không, giao thông công cộng và các hoạt động kinh doanh thương mại khác: Phạt tiền từ 10 đến 15 triệu đồng. Sử dụng nhằm mục đích thương mại trong cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính viễn thông, môi trường kỹ thuật số: Phạt tiền từ 15 đến 25 triệu đồng.
Có thể nói, với một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với pháp luật và điều kiện thực tiễn, Nghị định 131/2013/NĐ-CP sẽ mang lại tính khả thi cao hơn, tạo dư luận xã hội quan tâm hơn nữa vấn đề sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng còn mới mẻ và rất phức tạp tại Việt Nam.
Nghị định sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để Thanh tra và các cơ quan thực thi pháp luật thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác và sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan của các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan.
Nghị định này cũng sẽ có những tác động tích cực đối với việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của tác giả, nhà sáng tạo, nhà đầu tư; tạo động lực để họ cống hiến trí tuệ, sức lao động và kỹ năng nghề nghiệp vào hoạt động sáng tạo và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, phổ biến các giá trị này tới công chúng thụ hưởng.
Thực tế sau một thời gian áp dụng cho thấy những bất cập trong việc thực hiện khung phạt tiền hành chính theo giá trị hàng hóa vi phạm đối với một số hành vi xâm phạm quyền sao chép và phân phối tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm ghi hình, bản định hình chương trình phát sóng, theo Nghị định 47/2009/NĐ-CP và Nghị định số 109/2011/NĐ-CP. Do đó, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP đã thiết kế khung tiền phạt dựa vào hành vi vi phạm mà không dựa vào giá trị hàng hóa vi phạm như 2 Nghị định trước đây.
Cụ thể, quyền sao chép tác phẩm, quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là một trong những quyền tài sản mà chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 10 đến 30 triệu đồng đối với hành vi phân phối tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Phạt tiền từ 15 đến 35 triệu đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.
Một điểm mới cơ bản của Nghị định 131/2013/NĐ-CP là trước đây mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định cũ là 500 triệu đồng áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức, nay mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan đối với cá nhân là 250 triệu đồng, đối với tổ chức là 500 triệu đồng. Quy định này sẽ làm cho Nghị định 131/2013/NĐ-CP có tính khả thi cao hơn.
Ngoài ra, Nghị định 131/2013/NĐ-CP cũng có nhiều điều chỉnh đáng lưu ý khác.
Biểu diễn tác phẩm không được phép của tác giả sẽ bị phạt nặng
Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là một trong những quyền tài sản mà chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Đây là quyền do chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện.
Do đó, theo quy định tại Nghị định 131/2013/NĐ-CP, việc biểu diễn trực tiếp tác phẩm trước công chúng mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả cũng là hành vi vi phạm và có thể bị xử phạt tối đa đến 10 triệu đồng.
Trường hợp biểu diễn tác phẩm thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị phạt từ 10 đến 15 triệu đồng.
Đối với vi phạm trong phát sóng hoạt động biểu diễn, Nghị định 131/2013/NĐ-CP cũng đã đưa ra mức phạt lên đến 40 triệu đồng hành vi phát sóng hoặc truyền theo cách khác (bằng bất kỳ phương tiện nào ngoài phát sóng) đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của người biểu diễn, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng.
Nghị định số 131/2013/NĐ-CP cũng quy định mức phạt với một số hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực này như: không nêu tên hoặc nêu không đúng tên người biểu diễn trên bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; mạo danh người biểu diễn để biểu diễn tác phẩm…
Bên cạnh hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc buộc sửa lại đúng tên người biểu diễn; buộc dỡ bỏ bản sao cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.
Phải cải chính thông tin khi xuyên tạc tác phẩm của người khác
Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả là một trong những quyền nhân thân mà tác giả được hưởng theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Và Nghị định 131/2013/NĐ-CP đã quy định “Phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với hành vi tự ý sửa chữa, cắt xén tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả; Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với hành vi xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”.
Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng thông tin sai sự thật; buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu huỷ tang vật vi phạm.
Một vi phạm khác về quyền nhân thân của tác giả là việc sử dụng tác phẩm mà không nêu tên thật, bút danh tác giả, tên tác phẩm hoặc nêu không đúng tên thật hoặc bút danh tác giả, tên tác phẩm trên bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng theo quy định mới cũng sẽ bị phạt tiền tối đa đến 3 triệu đồng. Đồng thời phải sửa lại đúng tên tác giả, tác phẩm.
Sử dụng bản ghi âm, ghi hình, phải trả tiền cho chủ sở hữu
Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quyền độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện quyền phân phối đến công chúng bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Do đó, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định “Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với hành vi phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình”.
Tuy nhiên, một số trường hợp sử dụng bản ghi âm, ghi hình nhưng không phải xin phép thì phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu.
Cụ thể, các tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ quảng cáo hay không có tài trợ quảng cáo, sử dụng trong hoạt động kinh doanh thương mại đều phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng.
Trong trường hợp sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại nhưng không trả tiền cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định các mức phạt cụ thể như sau: Sử dụng nhằm mục đích thương mại trong nhà hàng, cơ sở lưu trú du lịch, cửa hàng, siêu thị: Phạt tiền từ 5 đến 10 triệu đồng; Sử dụng nhằm mục đích thương mại để phát sóng; trong lĩnh vực hàng không, giao thông công cộng và các hoạt động kinh doanh thương mại khác: Phạt tiền từ 10 đến 15 triệu đồng. Sử dụng nhằm mục đích thương mại trong cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính viễn thông, môi trường kỹ thuật số: Phạt tiền từ 15 đến 25 triệu đồng.
Có thể nói, với một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với pháp luật và điều kiện thực tiễn, Nghị định 131/2013/NĐ-CP sẽ mang lại tính khả thi cao hơn, tạo dư luận xã hội quan tâm hơn nữa vấn đề sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng còn mới mẻ và rất phức tạp tại Việt Nam.
Nghị định sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để Thanh tra và các cơ quan thực thi pháp luật thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác và sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan của các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan.
Nghị định này cũng sẽ có những tác động tích cực đối với việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của tác giả, nhà sáng tạo, nhà đầu tư; tạo động lực để họ cống hiến trí tuệ, sức lao động và kỹ năng nghề nghiệp vào hoạt động sáng tạo và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, phổ biến các giá trị này tới công chúng thụ hưởng.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ
Tin liên quan
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 15/10/2025
15/10/2025 10:09
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 14/10/2025
14/10/2025 10:08
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 13/10/2025
13/10/2025 09:43
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 10/10/2025
10/10/2025 17:15
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 08/10/2025
08/10/2025 10:55
Tổng hợp báo chí ngành Bưu điện ngày 06/10/2025
06/10/2025 09:42