Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 28/12/2012

Tin trong nước

Dùng chung hạ tầng: Bưu chính đi sau, về trước



Dùng chung hạ tầng vận chuyển, doanh nghiệp bưu chính có thể

tiết kiệm được một khoản kinh phí khá lớn.


Trong khi vấn đề dùng chung hạ tầng trong ngành viễn thông được bàn đến ít nhất là 5 năm nay nhưng vẫn chưa có hồi kết thì "người anh em" bưu chính đã chính thức khởi động việc dùng chung hạ tầng từ năm 2012. Và người tiên phong là Bưu chính Viettel (Viettel Post).

Đây là một giải pháp hiệu quả để giải bài toán tiết kiệm chi phí cho các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát trong thời buổi khó khăn được dự báo là còn kéo dài như hiện nay.

Nhiều năm "đóng cửa" mạng lưới

Hiện cả nước có khoảng 67 doanh nghiệp đã được Bộ TT&TT cấp phép cung cấp dịch vụ bưu chính và chuyển phát thư. Hạ tầng mạng bưu chính, chuyển phát có thể hiểu là hệ thống bao gồm mạng lưới bưu cục, điểm BĐVHX và các tuyến đường thư. Bưu chính Việt Nam (VietnamPost) đang dẫn đầu về hệ thống hạ tầng với 14.911 điểm phục vụ bưu chính (trong đó có 10.640 điểm BĐVHX) và mạng vận chuyển với 4.540 tuyến đường thư, 11.000 tuyến phát xã. Kế đó là Bưu chính Viettel với mạng lưới bưu cục và đường vận chuyển phủ rộng đến 92% số huyện trên cả nước. Còn lại các doanh nghiệp khác có quy mô mạng lưới rất nhỏ bé, phần lớn chỉ có chi nhánh ở các tỉnh, TP lớn, tại những tỉnh có sản lượng ít họ chỉ thiết lập tuyến phát.

Bản chất của dịch vụ bưu chính là làm dịch vụ vận chuyển cho nên lợi thế thuộc về những doanh nghiệp có mạng lưới thu gom và đi phát lớn, sở hữu mạng lưới vận chuyển rộng khắp. Từ trước đến nay hầu hết các doanh nghiệp bưu chính tự thiết lập tuyến đường thư của mình theo cảnh mạnh ai nấy làm. Một số doanh nghiệp lớn dù chưa sử dụng hết tải trọng vận chuyển nhưng vì cạnh tranh nên vẫn kiên quyết không cho các doanh nghiệp khác ký gửi hàng trên mạng lưới của mình.

Hai "đại gia" đã đổi mới tư duy

Trong vài năm gần đây, doanh nghiệp bưu chính đã phải đối mặt với nhiều khó khăn do chi phí giá thành dịch vụ tăng nhanh do biến động giá xăng dầu và chi phí khác. Trong khi đó, chi phí vận chuyển chiếm khoảng 30 - 40% giá thành dịch vụ bưu chính, nếu tiết kiệm chi phí vận chuyển sẽ tiết kiện được khá nhiều chi phí sản xuất của doanh nghiệp bưu chính.

Bưu chính Viettel đã chủ động khởi xướng cho các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát nhanh khác dùng chung mạng vận chuyển của mình. Ông Lương Ngọc Hải - Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính Viettel cho biết, giữa năm 2012 ViettelPost đã chủ động mời các hãng chuyển phát nhanh khác như: Sài Gòn Post, Tín Thành, 365 express, công ty CP 247 cùng bàn việc hợp tác dùng chung tuyến liên tỉnh theo hình thức đại lý.

Động thái của ViettelPost là một thay đổi căn bản trong tư duy kinh doanh của các doanh nghiệp bưu chính. ViettelPost là doanh nghiệp có năng lực lớn thứ hai trong lĩnh vực vận chuyển bưu chính, với hơn 100 xe chạy liên tỉnh. Chỉ đứng sau "ông anh cả" là VietnamPost có hơn 4.540 tuyến đường thư và sử dụng hàng trăm xe chạy liên tỉnh. Trước đây, các doanh nghiệp có mạng vận chuyển như VietnamPost hay ViettelPost không cho các doanh nghiệp khác kết nối với mình do lo sợ bị cạnh tranh và giành khách hàng. Vì thế một sản lượng lớn hàng hóa chuyển phát nhanh của các doanh nghiệp nhỏ được chuyển qua các tuyến xe khách chất lượng cao, với giá cước rẻ và thời gian vận chuyển nhanh, thủ tục gửi nhận đơn giản.

"Mỗi doanh nghiệp có một thế mạnh riêng và phân khúc khách hàng riêng, cho nên ViettelPost đã thay đổi tư tưởng lo ngại bị giật mất khách hàng. Thị trường chuyển phát nhanh còn rất nhiều, tiềm năng của doanh nghiệp bưu chính còn rất lớn, cho nên các doanh nghiệp có cùng nhu cầu khai thác hiệu quả mạng lưới nên ngồi lại với nhau để cùng hợp tác", ông Hải nói.

Hiện ViettelPost đã có hơn 30 doanh nghiệp chuyển phát nhanh gửi hàng trên xe ViettelPost ở các tuyến đi huyện, tới nơi người của họ chỉ việc nhận hàng và đi phát. Và nếu tại các tỉnh mà doanh nghiệp nhỏ không có tuyến phát, ViettelPost sẵn sàng đảm nhận khâu phát luôn.

Ông Hải cũng kỳ vọng nếu các doanh nghiệp bưu chính hợp tác khai thác tốt thì có thể thu hút thêm hàng gửi từ khác phương tiện khác (như các hãng vận tải và xe khách), vì bưu chính có lợi thế hơn các hãng này do nhận và phát tại địa chỉ khách hàng.

Bà Nguyễn Thị Bích Nga - Phó giám đốc Trung tâm Khai thác Vận chuyển (Bưu điện Hà Nội), đơn vị đang sở hữu 140 xe chạy liên tỉnh cho biết, Trung tâm này cũng bước đầu nhận chở hàng của các doanh nghiệp chuyển phát nhanh khác. Tuy nhiên, hầu hết các tuyến chạy từ Hà Nội đi các tỉnh là đủ tải trọng nên Trung tâm này chỉ có thể chia sẻ một chiều từ các tỉnh về Hà Nội.

Ông Nguyễn Đức Thế - Tổng giám đốc Netco cho rằng, ViettelPost và VietnamPost là hai doanh nghiệp lớn với thế mạnh về vận chuyển liên tỉnh. Còn các doanh nghiệp nhỏ hơn như Netco lại có thế mạnh khi xử lý các lô hàng cần chuyển nhanh, tại các thành phố hoặc khu công nghiệp lớn. Vì quy trình của các doanh nghiệp nhỏ rút gọn và tập trung hơn nên sẽ xử lý nhanh hơn.

Rủi ro có thể đến với doanh nghiệp có hạ tầng

Tuy nhiên, việc dùng chung mạng vận chuyển không phải là không có những bất lợi. Hiện có một số ý kiến lo ngại rằng, dùng chung sẽ khó kiểm soát được nội dung thư từ, hàng hóa của các hãng khác. Nếu hãng vận chuyển không kiểm soát tốt sẽ dễ để lọt hàng lậu hoặc thư từ tài liệu có nội dung xấu. Tình trạng mất an toàn an ninh bưu chính có nguy cơ tăng cao.

Còn ý kiến khác lại cho rằng, vận chuyển gánh phần chi phí lớn nhất, chiếm tới 30-40% chi phí trong dây chuyền chuyển phát nhanh. Nếu như các doanh nghiệp chuyển phát nhanh mà kinh doanh thua lỗ, phá sản hoặc lấy lý do chất lượng vận chuyển kém mà không thanh toán cước phí thì doanh nghiệp vận chuyển sẽ chịu phần rủi ro rất cao.

Dự đoán này thực tế đã xảy ra, theo bà Bích Nga, dù mới bắt đầu mở cửa xong Trung tâm này đã có một số khoản nợ khó đòi của khách hàng là một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nhỏ.
 
Theo ICTnews





Truyền hình trả tiền sắp “nổi sóng” vì DN viễn thông?

Dù vẫn đang vấp phải những kiến trái chiều, thế nhưng nhiều quan điểm cho rằng nếu không cho doanh nghiệp viễn thông nhảy vào lĩnh vực truyền hình trả tiền, thì rất có thể thực tế sẽ kéo theo sự tốn kém cho xã hội, chậm phát triển thị trường.

Truyền hình trả tiền sẽ cạnh tranh quyết liệt

Tại Việt Nam, thị trường truyền hình trả tiền hiện có gần 50 thương hiệu đang tham gia cung cấp dịch vụ như Truyền hình cáp Hà Nội (HCaTV), Truyền hình kỹ thuật số Việt Nam VTC, HTVC, VSTV (K+), SCTV… với khoảng 4,5 triệu thuê bao (vệ tinh, IPTV, truyền hình cáp...) chủ yếu tập trung tại khu vực đô thị.

Đáng chú ý, năm 2012, một số tên tuổi như VNPT, FPT Telecom, AVG (Truyền hình An Viên) và Viettel đệ đơn lên Bộ TT&TT xin cấp phép để sớm nhảy vào lĩnh vực này.

Động thái nói trên được thị trường kỳ vọng là với sự góp mặt của các doanh nghiệp viễn thông, truyền hình trả tiền tại Việt Nam sẽ bùng nổ, đồng thời đi theo chiều hướng có lợi cho người dùng vì thúc đẩy cạnh tranh mạnh hơn.

Trước thực tế này, tại Tọa đàm Triển vọng viễn thông 2013 diễn ra ngày 27/12, Câu lạc bộ Nhà báo CNTT-TT Việt Nam nhận định bước sang năm 2013, thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam sẽ trở nên “nóng” hơn trong câu chuyện sáp nhập và cạnh tranh. Bởi lẽ, sẽ các doanh nghiệp viễn thông có thế mạnh về mạng truyền dẫn có thể cung cấp cho khách hàng dịch vụ truyền hình trả tiền với chất lượng tốt và giá cước hợp lý hơn.

Lo ngại mất miếng bánh thị phần, ngay từ cách đây vài tháng, VTV, SCTV, Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam… đã đồng loạt có văn bản gửi Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TT&TT đề nghị có ý kiến đòi "ngăn sông cấm chợ" để không cho các doanh nghiệp viễn thông tham gia. Thậm chí, họ cho rằng đây là hoạt động đầu tư ngoài ngành của viễn thông, dễ gây ra lãng phí nguồn lực và hơn hết là sẽ tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh.

Liên quan đến vấn đề này, trao đổi tại Tọa đàm, ông Nguyễn Văn Hải – Giám đốc Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC) cho rằng rõ ràng sự cạnh tranh đương nhiên sẽ trở nên lớn hơn khi có nhiều doanh nghiệp viễn thông với lợi thế về hạ tầng, kênh phân phối, công nghệ nhảy vào “tham chiến”

Tuy nhiên, ông Hải bày tỏ sự cạnh tranh ở lĩnh vực truyền hình trả tiền tại Việt Nam dù vậy vẫn chưa khốc liệt.

Còn ông Trương Gia Bình, Chủ tịch kiểm Tổng giám đốc FPT, thì bản chất của truyền hình trả tiền tại Việt Nam thực ra “vẫn chưa mở đối với một số đối tượng”. Ông Bình nhấn mạnh, nếu không cho doanh nghiệp viễn thông nhảy vào lĩnh vực này thì việc tốn kém đầu tiên là xã hội. Bởi, khi các dịch vụ mạng hội tụ rất nhiều trên cùng một đường cáp thì nếu doanh nghiệp chỉ cung cấp một dịch vụ trên đường cáp đó sẽ không thể tồn tại được. Mà như thế, nếu một đường truyền cho truyền hình, một đường cho điện thoại… thì hạ tầng cần phải xây rất nhiều đường, tức là cũng sẽ kéo luôn theo sự chậm phát triển của thị trường.

Mới đây nhất, tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013 do Bộ TT&TT tổ chức hôm 24/12, ông Nguyễn Mạnh Hùng – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel cho rằng việc Viettel xin cấp phép tham gia thị trường truyền hình trả tiền (từ tháng 2/1012 – PV) nhưng hiện chưa được cấp phép. Và với tiềm lực hiện có, nếu hạ tầng cáp quang đến xã đầu tư thêm để cung cấp truyền hình cáp sẽ giảm chi phí đầu tư từ hai đến ba lần, giúp cho dịch vụ có thể phổ cập đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Doanh nghiệp viễn thông đủ tiềm lực sẽ được cấp phép

Trước ý kiến của Viettel tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013 của Bộ TT&TT, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân bày tỏ quan điểm đồng tình để doanh nghiệp phát triển khi có khả năng và mong muốn triển khai các dịch vụ mới, vì thế cơ quan quản lý nên bàn bạc hỗ trợ.
 
Về trường hợp Viettel, Phó Thủ tướng chỉ đạo chậm nhất là tháng 2/2013, Bộ TT&TT cần trao đổi, có ý kiến trả lời doanh nghiệp về việc triển khai dịch vụ mới và báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ trong tháng 2/2013.

Liên quan đến vấn đề này, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Bắc Son cũng cho biết ngay trong tháng 2 sẽ xem xét trường hợp của Viettel để báo cáo Chính phủ.

Tại Tọa đàm Triển vọng thị trường viễn thông 2013, Thứ trưởng Bộ TT&TT Lê Nam Thắng cho biết, trước 2010, truyền hình vẫn được coi là lĩnh vực báo chí, ai làm truyền hình thì làm cả hạ tầng. Khi đó, Bộ TT&TT cũng đã thấy được vấn đề này. Cuộc "cách mạng" về truyền hình là ban hành quy hoạch phát sóng phát thanh truyền hình, xác định hạ tầng truyền dẫn cho phát thanh tuyền hình là hạ tầng viễn thông, còn nội dung truyền hình mới coi là lĩnh vực báo chí. Tách ra như vậy để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia cung cấp hạ tầng truyền dẫn phát sóng. Đây cũng là lần đầu tiên Bộ TT&TT đưa ra khái niệm dịch vụ truyền hình. Vừa rồi Thủ tướng ban hành tiếp quyết định về truyền hình trả tiền, đây là thay đổi tư duy dẫn đến thay đổi trong chính sách.

Như vậy, việc các doanh nghiệp viễn thông sẽ tham gia vào phần truyền trong việc cung cấp dịch vụ truyền hình cấp. Việc cung cấp dịch vụ này sẽ được áp dụng theo Luật Viễn thông.  
 
Theo ICTnews





Dùng vốn ưu đãi để 'phá băng' BĐS?
 

Dùng vốn ưu đãi để “phá băng” bất động sản đang là hướng lựa chọn của chính sách. Còn kích cầu qua mở lối kinh doanh casino là hướng đi mới và cụ thể mà ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) gợi mở.
 

 


“40 - 60 nghìn tỷ đồng so với quy mô thị trường bất động sản còn khiêm tốn, nhưng quan trọng là nó đi vào những nhu cầu thật, hướng vào những đối tượng khó khăn và cần hỗ trợ thực sự”.

Ông Hưởng nêu quan điểm:

Muốn kích cầu, tháo gỡ khó khăn của nền kinh tế hiện nay thì phải có nguồn để tạo đòn bẩy. Nguồn không chỉ là ngân sách, tín dụng mà phải thu hút được thêm vốn đầu tư nước ngoài.

Có bốn giải pháp có thể xem xét triển khai ngay, tạo khả năng thúc đẩy nhanh. Đó là giải phóng hàng tồn kho bằng bê tông hóa hạ tầng giao thông, mở lối cho casino, cho vay mua bất động sản lãi suất thật thấp và thúc đẩy mua bán nợ xấu.

Cụ thể các giải pháp đó như thế nào, thưa ông?

Một nút thắt thời gian qua và hiện nay là hàng tồn kho, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng và vật liệu xây dựng. Vậy thì hãy đẩy mạnh các dự án bê tông hóa hạ tầng giao thông, cho vay ưu đãi để triển khai. Theo hướng này sẽ giải phóng nhanh lượng tồn kho xi măng, sắt thép…

Nhu cầu bê tông hóa hạ tầng của ta rất lớn, đặc biệt là tại các địa bàn nông thôn, vùng sâu vùng xa, mà lao động việc làm ở các ngành liên quan là rất lớn.

Còn với casino, liệu có kích cầu được không?

Với casino, hiện nay chúng ta chưa quyết. Nếu quyết thì sẽ kích được một lực cầu rất lớn, đó là cho người Việt Nam tham gia.

Hướng đi này liên quan đến thuần phong mỹ tục. Chúng ta vẫn nói đó là đánh bài và như thế là hư hỏng. Thế nhưng thực tế người ta đã nghiên cứu hàng năm người Việt Nam chi bao nhiêu ngoại tệ để ra nước ngoài đánh bài rồi.

Nay nếu cho phép mở casino, như một điểm là quận 2 của Tp.HCM, nhà đầu tư nước ngoài có thể rót 10 - 12 tỷ USD để mua lại, thậm chí họ đã lên kế hoạch. Giả sử vậy, những người có đất ở quận 2 bán xong, họ sẽ mua nhà đất ở chỗ khác. Tương tự là cho mở tại Hải Phòng, Hà Nội… Cầu bất động sản như vậy đã lên rồi.

Ở Singapore, nguồn thu từ dịch vụ này chiếm 3 - 5% GDP. Ở mình nếu mở thành công thì có thể góp 5 - 20% GDP, cũng như thu hút liên tục 30 - 50 nghìn lao động.

Nhưng cái chính hiện nay là người Việt Nam không được vào casino…

Cho vào, như thế thì dung túng người Việt Nam? Nhưng theo tôi đó lại là cách quản lý hiệu quả. Cho vào để qua đó biết ai hay vào, nguồn tiền từ đâu… Như thế cũng để tăng thu ngân sách. Nếu cấm nhóm đối tượng cụ thể thì chỉ là thủ tục đơn giản.

Để hạn chế người Việt Nam vào casino thì thu phí. Ở Singapore khách nội địa phải nộp 100 USD, ở mình thì nộp 500 USD. Phí đó quỹ hỗ trợ người nghèo đứng ngay ở cửa để thu. Quỹ sẽ rất lớn.

Tôi có hỏi một số người ra nước ngoài chơi casino mức phí đó có đắt không. Họ nói nếu thu 1.000 USD vẫn rẻ, vì họ khỏi phải bay sang nước khác, khỏi mất nhiều thời gian và chi phí khác… Hiện Việt Nam ta không có nên họ vẫn bay ra ngoài. Sự thật là như thế.

Nhưng casino có thực sự thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào không?

Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang ngắm vào Việt Nam ở dịch vụ này, thậm chí các bộ chức năng đã nắm trong tay những bộ hồ sơ đặt vấn đề, họ đã khảo sát cả thực địa…

Theo tôi biết thì họ đang trông chờ để được mở, chỉ chờ một câu “cho người Việt Nam được tham gia casino”. Hiện nay còn thiếu câu đó, còn họ đã sẵn sàng. Hẳn họ đã nghiên cữu kỹ thực tế người Việt Nam mang ngoại tệ ra nước ngoài chơi casino như thế nào rồi.

Thế đấy, đem ra ngoài để cho người ta thu. Mà nếu được mở, không chỉ khách Việt Nam mà du khách trên thế giới cũng sẽ đến. Đó sẽ là một nguồn thu ngân sách lớn.

Tôi nghĩ đây là một hướng kích cầu đột phá, vấn đề là quan điểm, thuần phong mỹ tục. Còn thực tế thì nhiều người Việt Nam vẫn ra nước ngoài để “đánh” đó thôi mà không quản lý được. Đó là chảy máu ngoại tệ. Còn nếu mở thì sẽ quản lý được.

Bên cạnh các phương án trên, ông có nói đến việc cho vay mua bất động sản lãi suất thấp để kích cầu?

Hiện một số ngân hàng cũng đã cho vay mua bất động sản từ 8 - 9% rồi, dành cho những khách hàng tốt mà họ muốn lôi kéo. Giờ muốn hấp dẫn hơn nữa và để kích cầu thì cần phải thấp hơn nữa, 6 - 7%/năm.

Nguồn vốn ở đây là Ngân hàng Nhà nước bỏ ra khoảng 40 - 60 nghìn tỷ đồng, cho ngân hàng thương mại vay 3 - 4%/năm. Khi có nguồn, ngân hàng thương mại phải làm việc với các dự án bất động sản, yêu cầu các ông phải cắt lỗ, phải bán với giá mà người dân chấp nhận được. Nếu ông nào bán giá hợp lý, phù hợp với những người có nhu cầu mua nhà thực, thì được ưu tiên cho vay khách hàng mua dự án đó và cho chính ông vay để phát triển tiếp.

Cũng lưu ý là quy trình ở đây phải làm rất chặt giữa bốn bên: Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại, chủ dự án bất động sản và người mua. Như vậy mới có cơ hội thực sự cho những người có nhu cầu mua nhà thật, ưu tiên cho vay tiêu dùng nhưng món vay không quá lớn.

Nhiều người dân có nhu cầu, nhưng chưa đủ sức mà giá chưa phù hợp. Có mười bậc thang, họ đã bước được 6 - 7 bậc rồi, thì chính sách đó sẽ hỗ trợ 3 - 4 bậc còn lại để họ có nhà ở.

Phải làm chặt như ông nói, nhưng khả năng trục lợi vốn ưu đãi, lợi ích nhóm… vẫn là quan ngại nếu triển khai phương án đó, thưa ông?

Khi đưa ra thì phải giám sát chặt. Có các quy định cụ thể. Thậm chí quy định các tiêu chí xác định giá bất động sản bán như thế nào. Ví dụ như giá thị trường hiện nay là 6 triệu/m2, thì chỉ cho vay đối với những ai bán thấp hơn khoảng 4 triệu/m2 thôi. Tức là phải ép cả ông bán. Tôi xuống lãi suất thì ông cũng phải xuống giá, xuống giá thì mới có nhiều người mua chứ. Khi ông bán hết thì tôi đầu tư tiếp vốn cho ông để đi làm dự án khác. Đó là điều kiện ưu tiên.

Rồi tránh đầu cơ, tránh lợi dụng vay nhiều, bởi vốn rẻ từ hỗ trợ của nhà nước mà ai làm sai phải xử lý ngay. Ngân hàng Nhà nước đưa ra chế tài, nếu phát hiện vi phạm, trục lợi… thì phạt thật nặng như cấm triển khai các nghiệp vụ khác. Như thế sẽ răn đe được.

Liệu còn có các rủi ro nào khác bên cạnh rủi ro đạo đức không?

Bản thân mức lãi suất thấp như vậy, mức giá bất động sản trong chương trình này cũng được ép xuống thấp sẽ giảm bớt áp lực trả nợ. Mặt khác, nó tập trung cho những nhu cầu thực, cho những người có thu nhập thấp, với những người đã leo được 6 - 7 bậc cầu thang rồi. Có hỗ trợ như vậy họ sẽ nỗ lực để có căn nhà của mình. Như vậy thì an cư lạc nghiệp, mà ngoài yếu tố kinh tế ra còn là vì an sinh xã hội nữa.

Cứ cho là triển khai giải pháp đó, quy mô 40 - 60 nghìn tỷ như vậy theo ông có đủ lực để kích thích không, hay gần đây là cách nói “cứu” bất động sản?

Tiêu hết được bấy nhiêu đã là một vấn đề rồi. Nếu tiêu hết được số đó thì chắc chắn kích cầu được thực sự.

So với quy mô của thị trường bất động sản, quy mô đó còn khiêm tốn, nhưng quan trọng là nó đi vào những nhu cầu thật chứ không ảo, hướng vào những đối tượng khó khăn và cần hỗ trợ thực sự.

Vậy đâu là trở ngại nếu triển khai, theo ông?

Cái khó nhất ở đây là từ ông bán. Ông ta có chấp nhận bán giá thấp không, giảm giá xuống không. Ngân hàng thương mại cũng phải ép, ông chấp nhận bán giá thấp thì tôi mới cho vay, qua đó ông mới giải phóng được hàng tồn kho của mình. Nếu ông đồng ý bán như vậy, nhiều người mua mới tiếp cận được, và khi bán được hàng ngân hàng mới tiếp tục có vốn ưu đãi để ông làm tiếp.

Ở giải pháp mua bán nợ xấu mà ông nêu trên, có phải là lập công ty mua bán nợ mà dư luận quan tâm thời gian qua?

Đúng vậy. Theo tôi cần làm nhanh cơ chế mua bán nợ. Nó không mới gì. Nhật Bản, Thủy Điển đã từng làm rất tốt và qua đó vượt qua khó khăn.

Ví dụ thế này nhé. Tài sản mua bán nợ là cái ấm trà. Ngân hàng cho vay 70% ấm trà, họ cầm hẳn cái ấm trà đó. Nay nó thành nợ xấu, công ty mua bán nợ sẽ mua lại khoảng 35%, tức chỉ bằng cái chén thôi nhưng lại giữ được cái ấm trà. Ngân hàng và doanh nghiệp trong lúc khó khăn này thì chỉ cần cái chén, một miếng khi đói bằng một gói khi no, thì sẽ xoay xở được bao nhiêu việc. Nhưng công ty mua bán nợ không phải là nắm cái chén, mà là ấm trà, họ nắm cơ hội có ấm trà đó.

Cũng có ý kiến là khi lập công ty mua bán nợ đó, dùng tiền ngân sách có thể làm thất thoát, rồi có thể nảy sinh lợi ích nhóm… Cái gì cũng có hai mặt của nó, có cái tốt, cái không tốt. Vậy thì chọn cái nào tốt hơn và tìm cách bịt các kẽ hở, hạn chế những cái không tốt của nó.

Nếu làm đồng thời được những chính sách đó thì tôi tin chúng ta sẽ vượt qua được những khó khăn của nền kinh tế hiện nay.

 
Theo Tiền phong





Niềm tin của khách hàng là nguồn thu vô cùng lớn của Bưu chính

Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost) đang đứng trước nhiều thách thức, cũng như cơ hội khi tách ra hoạt động độc lập và khi quyền đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước được chuyển về Bộ, GS.TSKH. Đỗ Trung Tá - nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn Thông cho biết.

Phóng viên VnMedia đã có cuộc trao đổi với nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá xung quanh việc chia tách VNPost ra khỏi Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và chuyển quyền chủ sở hữu tại VNPost từ VNPT về Bộ TT&TT.

Bưu chính đang có nhiều thuận lợi

V: Trước khi chia tách VNPost ra khỏi VNPT, đã có nhiều lo ngại về hiệu quả hoạt động kinh doanh; bài toán nhân lực dư thừa… nhưng sau 5 năm, VNPost đã có những tín hiệu đáng mừng, ông nhận định thế nào về sự phát triển này của VNPost?

Ông Đỗ Trung Tá: Lúc đầu tách ra thì lo. Người quản lý lo, và những người thực hiện cũng rất lo lắng. Tuy nhiên phương châm phát triển Bưu chính khi tách ra đã khá rõ rệt.

Thứ nhất là dịch vụ của Bưu chính được đa dạng hóa , không chỉ những dịch vụ giới hạn trong bưu chính truyền thống, mà mở rộng tất cả sang các dịch vụ viễn thông, đồng thời thúc đẩy các dịch vụ tài chính, dịch vụ bán lẻ và dịch vụ phối hợp với các dịch vụ xã hội khác (thu hộ, chi hộ…). Việc đa dạng hóa dịch vụ như vậy làm cho Bưu chính thành người gắn với khách hàng cả ở với dịch vụ bưu chính và cả dịch vụ viễn thông...

Bưu chính cũng có một thuận lợi là ngành ra đời sớm nên các địa phương đều ưu tiên cho các địa điểm trung tâm, rất phù hợp để giao dịch với khách hàng, thuận lợi cho việc phục vụ và phát triển kinh doanh. Mạng lưới gần 20.000 điểm giao dịch bao phủ  rộng khắp từ trung tâm các tỉnh, thành phố lớn cho tới tận các xã vùng sâu, vùng xa, trong đó có gần 8.000 điểm Bưu điện Văn hóa xã. Đây là một lợi thế mà không phải ngành nào trong nước cũng có được.

Chính vì thế trong 5 năm qua, anh em Bưu chính rất phấn khởi, và đã tập trung vào phát triển nhiều dịch vụ có kết quả; đa dạng hóa các bưu cục với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau; gắn được các dịch vụ bưu chính với bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, các tổ chức tài chính và nhiều dịch vụ phát triển khác trong tương lai. Tôi cho rằng quyết định cho phép Bưu chính được kinh doanh tất cả các dịch vụ là một quyết định rất đúng đắn.
 
Với phương châm: tốc độ - tiêu chuẩn - tin học, Bưu chính cần tiếp tục giải quyết tốt những vấn đề đặt ra. Tốc độ là chuyển phát phải nhanh, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Tiêu chuẩn là phải chuẩn hóa, hiện đại hóa các dịch vụ. Còn Tin học, tức là phải ứng dụng mạnh mẽ CNTT cho mọi loại dịch vụ và đảm bảo được việc truy tìm định vị bưu phẩm, bưu kiện, trực tuyến trong thời gian vận chuyển; Việc ứng dụng tin học trong tất cả các lĩnh vực quản lý khai thác sẽ giảm được giá thành, đồng thời sẽ tạo ra được hiệu quả rất minh bạch, tạo cho khách hàng niềm tin.
 
Có thể nói, niềm tin của khách hàng đối với các dịch vụ bưu chính sẽ là nguồn thu vô cùng to lớn của Bưu chính trong tương lai.

- Ông có lo ngại gì về vấn đề chia tài sản giữa VNPost với VNPT?


Về việc chia tài sản, Bưu chính có thuận lợi hơn Viễn thông. Hầu hết tất cả các trụ sở của Bưu chính -  Viễn thông từ trước tới nay được trao lại cho Bưu chính, còn Viễn thông thì xây trụ sở mới. Gần 20.000 điểm giao dịch từ Bưu cục đến các điểm Bưu điện văn hóa xã đều giao cho Bưu chính. Cho nên về mặt vốn liếng, tài sản thì Bưu chính nhiều hơn Viễn thông. Như vậy, nhà cửa, cơ sở vật chất của Bưu chính là rất thuận lợi.

Thuận lợi là như vậy, nhưng Bưu chính cũng phải tính đến khấu hao tài sản, sử dụng hiệu quả, nộp các loại thuế cho nhà nước. Đây cũng là thách thức cho Bưu chính.

Không đảm bảo tốc độ nhanh, VNPost có thể thua trên “sân nhà”

- Việc chuyển quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại VNPost từ VNPT về Bộ Thông tin và Truyền thông tạo ra cơ hội và thách thức gì cho VNPost, thưa ông?

Chúng ta đã thông qua Đề án chiến lược “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin”, thì đòi hỏi các doanh nghiệp viễn thông phải có một sức mạnh, phải phấn đấu thật cao, nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ trong nước mà còn cả với các doanh nghiệp nước ngoài; Đồng thời phát triển với một tốc độ cao hơn, không chỉ tập trung vào viễn thông mà cả công nghệ thông tin.

Việc tách Bưu chính ra khỏi VNPT và việc Bưu chính cũng được kinh doanh các dịch vụ viễn thông cũng tạo ra một sự cạnh tranh nhất định giữa Bưu chính với Viễn thông, tạo điều kiện cho cả hai đều có cơ hội phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh, chất lượng phục vụ thông qua việc cạnh tranh. Bưu chính cũng cần phải nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng được sự thay đổi rất nhanh của công nghệ.

Việc chuyển quyền sở hữu VnPost từ Tập đoàn sang Bộ TT&TT cũng có rất nhiều thuận lợi cho Bưu chính vì Bộ là người chịu trách nhiệm tất cả các dịch vụ Bưu chính công ích như thông tin cơ sở, thư tín bao cấp cho người nghèo, lực lượng vũ trang, học sinh sinh viên…đều được hưởng.

- Thách thức lớn nhất hiện nay đối với VNPost là gì, thưa ông?

Muốn phát triển thì Bưu chính không chỉ dừng lại những dịch vụ truyền thống mà phải phát triển nhiều dịch vụ mới. Muốn phát triển nhiều dịch vụ mới thì nguồn nhân lực phải được đào tạo. Nguồn nhân lực này phải có kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin cho cả phần quản lý, khai thác cũng như chăm sóc khách hàng.

Trong thời kỳ hội nhập, một thách thức nữa của Bưu chính đó là tốc độ. Đến năm 2013, Việt Nam sẽ mở cửa tự do cho các công ty chuyển phát nhanh nước ngoài có thể kinh doanh. Ai bảo đảm tốc độ nhanh nhất, với thời gian ngắn nhất người đó sẽ thắng. Đó là thách thức lớn của Bưu chính.

Bưu chính nếu không phát triển nhiều dịch vụ mới, không đảm bảo tốc độ nhanh thì sẽ thua ngay trên thị trường Việt Nam.

- Lực lượng lao động trình độ không cao, không còn trẻ… còn khá lớn tại VNPost, đó có phải là gánh nặng cho VNPost cần khắc phục trong thời gian tới?


Cũng chính vì thế Nhà nước đã dành một quỹ cho Bưu chính trong việc tuyển dụng để giải quyết vấn đề lao động. Và gần đây Bưu chính cũng đã tuyển được nhiều nhân lực trẻ có trình độ vào làm việc. Họ sẽ được tiếp tục đào tạo để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Tôi hy vọng mặc dù còn khó khăn trong một hai năm nữa, nhưng lực lượng lao động sẽ được trẻ hóa rất nhanh, Bưu chính sẽ có những thay đổi tích cực trong thời gian tới.

Theo VnMedia





Phóng thành công vệ tinh VINASAT-2 là sự kiện ICT tiêu biểu năm 2012


Đây là sự kiện nằm trong số 10 sự kiện ICT tiêu biểu nhất năm 2012 do Câu lạc bộ Nhà báo Công nghệ thông tin Việt Nam (Vietnam ICT Press Club) vừa chính thức công bố vào sáng nay, ngày 27/12, tại Hà Nội.

Dựa trên các tiêu chí: mức độ ảnh hưởng của sự kiện đến cộng đồng, xã hội và sự phát triển của ngành ICT, từ danh sách 20 sự kiện được đề cử, gần 50 nhà báo chuyên trách ICT đến từ các báo, đài phát thanh, truyền hình trong cả nước đã chấm điểm chọn ra 10 sự kiện tiêu biểu của năm 2012.

Giành được số phiếu bình chọn cao, sự kiện phóng thành công vệ tinh VINASAT-2 của Việt Nam đã ghi nhận nỗ lực lớn trong việc khẳng định chủ quyền không gian quốc gia trên quỹ đạo. Vệ tinh VINASAT-2 của Việt Nam đã được phóng thành công lên quỹ đạo đã khẳng định quyết tâm đầu tư của Việt Nam vào lĩnh vực viễn thông, tăng cường hơn nữa cho năng lực hạ tầng mạng viễn thông của Việt Nam.

Tổng vốn đầu tư cho dự án này là khoảng 280 triệu USD trong đó 80% là vốn vay và 20% là vốn đối ứng của VNPT. Ngày 4/7/2012, VNPT đã nhận bàn giao vệ tinh VINASAT- 2, chính thức bắt tay vào vận hành, quản lý và kinh doanh vệ tinh này. Dự kiến, VINASAT-2 sẽ được thu hồi vốn trong vòng 10 năm, 5 - 6 năm còn lại của tuổi thọ vệ tinh sẽ giúp VNPT có lãi.

Tại Hội nghị triển khai kế hoạch của Bộ Thông tin và Truyền thông hôm 24/12 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân cũng đã nhấn mạnh những thành tựu của ngành Thông tin và Truyền thông năm 2012, trong đó đặc biệt đánh giá cao việc phóng thành công vệ tinh VINASAT-2. Theo Phó Thủ tướng, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, đơn vị được giao chủ trì đã rất cố gắng, quyết tâm cao để phóng thành công vệ tinh VINASAT-2. Thêm một lần nữa Việt Nam khẳng định chủ quyền trên không gian quỹ đạo. Và đặc biệt, là một trong những nỗ lực góp phần phủ sóng, đưa dịch vụ viễn thông đến mọi miền đất nước, phục vụ vùng sâu, vùng xa.

Theo VNPT




Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không: Ngành Bưu điện đóng góp sức mình với nỗ lực cao nhất

Trong 12 ngày đêm từ 18 đến 29/12/1972, quân dân Hà Nội đã lập một kỳ tích lịch sử: bắn rơi 23 máy bay B-52, bắt sống nhiều phi công Mỹ. Sau sự kiện này, Tổng thống Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom trên toàn miền Bắc Việt Nam từ 30/12/1972, đi đến việc ký kết Hội nghị bốn bên về “chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam” tại Pa-ri ngày 27/1/1973. Ngành Bưu điện nói chung và Bưu điện Hà Nội (nay là VNPT Hà Nội) nói riêng đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng Điện Biên Phủ trên không lẫy lừng năm ấy.
 
Chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng phục vụ trong mọi tình huống
 
Năm 1972, trước tình hình bắn phá ngày càng ác liệt của Đế quốc Mỹ, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, Đảng Đoàn và lãnh đạo ngành Bưu điện quyết định: “Tập trung mọi khả năng khôi phục, cải tiến, cải tạo củng cố và phát triển có trọng điểm, từng bước, vững chắc và cân đối mạng lưới thông tin Bưu điện từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt chú trọng các tỉnh vùng khu IV cũ, các tỉnh trọng điểm… làm cho thông tin thực sự thông suốt liên tục, vững chắc luôn luôn ở tư thế sẵn sàng, phục vụ đắc lực cho sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp phục vụ tốt cho chiến đấu và giao thông vận tải”.

Mạng lưới thông tin Bưu điện, tuy đã được tăng cường và ổn định hơn trước, nhưng về cơ bản còn trong tình trạng chắp vá, mất cân đối, không vững chắc, chưa khắc phục xong hậu quả chiến tranh phá hoại lần trước. Rút kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần trước, ngay từ đầu khi địch leo thang ồ ạt đánh ra miền Bắc, Tổng cục đã chỉ thị cho các đơn vị trong toàn ngành: “Khẩn trương sơ tán, phân tán thiết bị, trạm máy ở các nơi trọng điểm đến các vùng an toàn, đồng thời xúc tiến ngay việc che chắn, gia cố, xây dựng thêm hầm hào để bảo vệ người và thiết bị, làm thêm đường vòng, đường tránh, bổ sung thêm thiết bị, phương tiện vật tư dự phòng cho cơ sở để chủ động đối phó với tình hình đánh phá của địch. Mặt khác tăng cường và triển khai mạng vô tuyến hoạt động song song với hữu tuyến”.

Thực hiện chủ trương trên, toàn ngành đã phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh dù gặp nhiều khó khăn. Đường trục có thêm 109km cột sắt, bê tông với 518 km đôi dây trần và 17km cáp. Mạng nội tỉnh và nội thị hoàn thành 40 công trình với 413.5km cột sắt, bê tông, 11km cột gỗ, 696km đôi dây trần và 300m cáp nhập dài. Thiết bị thông tin và phương tiện vận tải cũng được tăng thêm 170 tổng đài, 154 máy thu phát, 92 máy tải ba, 57 máy tê-lê-tip, 19 máy nổ, 20 xe ô tô, 605 thuyền các loại…

Về công tác thông báo, báo động máy bay địch, lãnh đạo ngành đã thống nhất với quân đội sử dụng hệ thống thông tin Bưu điện Hà Nội thông báo rộng rãi cho các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp biết và phòng tránh kịp thời.

Quyết giữ mạch máu thông tin liên lạc

Đêm 18/12/1972, khi địch tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, hệ thống thông tin của Ngành cùng với hệ thống thông tin quân đội đã đảm bảo phục vụ cho chỉ huy chỉ đạo đánh trả địch.

Hệ thống thông tin Bưu điện Hà Nội phục vụ đắc lực cho sư đoàn phòng không 361 bảo vệ Thủ đô chỉ huy các tiểu đội cao xạ, tên lửa khi địch đánh phá hệ thống hữu tuyến điện của sư đoàn và gây nhiễu các mạng Vô tuyến điện sóng cực ngắn. Bưu điện Hà Nội còn phối hợp với coq quan thông tin Bộ Tư lệnh Thủ đô đặt liên lạc hữu tuyến điện trực tiếp đến các trận địa súng máy, cao xạ khu phố, cơ quan, xí nghiệp ở bốn quận, huyện ven nội, bảo đảm cho Bộ Tư lệnh Thủ đô chỉ huy đánh trả máy bay địch, chỉ duy 26 đài quan sát bằng mắt thường trong Thành phố.

Trong 12 ngày đêm, địch tấn công ngày càng ác liệt nhưng các đội bảo vệ đường dây rất kiên cường, dũng cảm, ngày đêm xông pha trong lửa đạn bảo vệ mạng lưới thông tin. Địch ném bom vào hai cơ sở thông tin vô tuyến đầu não là Đài phát Đại Mỗ, Đài thu Quế Dương và một số cơ sở thông tin ở Hà Nội, gây cho ta nhiều thiệt hại, hòng ngăn không cho ta phát ra thế giới những tin tức về tội ác của chúng. Có chuẩn bị tốt, có phương án cụ thể từ trước nên Cục Bưu điện Trung ương, V1, Đội cáp nội hạt và các phòng Bưu điện Gia Lâm, Đông Anh đã triển khai nhiều phương thức thông tin, phục hồi nhanh chóng các cơ sở bị đánh phá. Ngay trong khi địch dùng B52 rải thảm bom, đường dây bị hỏng nặng, nhưng nhờ xử lý rất nhanh nên việc liên lạc ra nước ngoài và từ các trọng điểm về Trung ương Đảng và Chính phủ vẫn thông suốt. Các đài phát dự phòng, nhất là C27 đã phát huy tác dụng mạnh.

Có thể nói, trong thắng lợi to lớn của việc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Đế quốc Mỹ trên miền Bắc, đặc biệt là cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của chúng vào cuối năm 1972, ngành Bưu điện đã đóng góp phần mình với sự nỗ lực cao nhất. Đảng Đoàn và lãnh đạo Tổng cục đã quán triệt sâu sắc các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Chính phủ, chủ động chuẩn bị và đề ra những chủ trương đúng đắn, nhằm tăng cường sức mạnh chiến đấu của Ngành. Với nhiệt tình yêu nước và tinh thần căm thù giặc Mỹ xâm lược, tuy sức tàn phá của bom đạn địch có gây nhiều khó khăn trong việc cứu chữa, bảo vệ mạng lưới thông tin nhưng CBCNV toàn ngành luôn nêu cao khẩu hiệu “Sống bám máy, bám đường, chết kiên cường bất khuất”, góp phần vào chiến thắng của quân dân Hà Nội: bắn rơi 23 máy bay B52, bắt sống nhiều phi công Mỹ, góp phần đập tan chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Đế quốc Mỹ ở miền Nam, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, đơn phương rút quân về nước.    

Theo VNPT






PVI và PTI hợp tác với Vietnam Airlines
     
Ngày 26/12, Liên danh Tổng công ty Bảo hiểm PVI và Tổng công ty Bảo hiểm Bưu điện (PTI) đã ký kết hợp đồng bảo hiểm với Vietnam Airlines.
 
Liên danh Bảo hiểm PVI và PTI do Bảo hiểm PVI đứng đầu, sẽ cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho toàn bộ tài sản mặt đất và con người của Vietnam Airlines trong 3 năm (2013 - 2015), với trị giá bảo hiểm hàng nghìn tỷ đồng. Hợp đồng bảo hiểm với Vietnam Airlines đã đánh dấu một bước phát triển mới của Bảo hiểm PVI trong lĩnh vực bảo hiểm hàng không, bên cạnh những lĩnh vực truyền thống đã được thị trường ghi nhận như bảo hiểm năng lượng, dầu khí và dự án.

Theo Đầu tư chứng khoán





Vietnam Airlines kí hợp đồng bảo hiểm với Liên danh Bảo hiểm PVI - PTI

Ngày 26/12/2012, tại trụ sở của Tổng công ty Hàng không Việt Nam đã diễn ra lễ ký Hợp đồng bảo hiểm giữa Liên danh Bảo hiểm PVI và PTI với Vietnam Airlines. Liên danh Bảo hiểm PVI và PTI sẽ cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho toàn bộ tài sản mặt đất và con người của Vietnam Airlines giai đoạn 2013 đến 2015.

Đến dự buổi lễ có ông Phạm Ngọc Minh - Tổng giám đốc Vietnam Airlines; ông Nguyễn Anh Tuấn - Chủ tịch HĐQT PVI; ông Bùi Vạn Thuận - Tổng giám đốc PVI; ông Nguyễn Trường Giang - Tổng giám đốc PTI...

Theo nội dung hợp đồng hợp tác, liên danh PTI và PVI sẽ bảo hiểm cho  toàn bộ tài sản của Vietnam Airlines bao gồm hệ thống trụ sở, kho tàng, thiết bị điện tử, phương tiện vận tải mặt đất với trị giá bảo hiểm hàng nghìn tỷ đồng và trên 10.000 cán bộ công nhân viên bao gồm nhân viên tổ bay, cán bộ đại diện và cán bộ công nhân viên của Vietnam Airlines được cung cấp các dịch vụ bảo hiểm chăm sóc y tế và vận chuyển cấp cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế trên phạm vi toàn thế giới.

Được Vietnam Airlines, hãng hàng không quốc gia Việt nam, thành viên của Sky Team lựa chọn cung cấp dịch vụ bảo hiểm một lần nữa khẳng định sự lớn mạnh của PTI trong lĩnh vực bảo hiểm hàng không. Trước đó, PTI đã được thị trường biết đến trong việc được lựa chọn là nhà bảo hiểm cho hãng hàng không Air Mekong về tài sản kỹ thuật và bảo hiểm chăm sóc sức khỏe cho cán bộ nhân viên.

Những hình ảnh về buổi lễ kí kết hợp đồng bảo hiểm giữa Liên danh Bảo hiểm PVI và PTI với Tổng công ty Hàng không Việt Nam:

 




Ông Phạm Ngọc Minh - Tổng Giám đốc Vietnam Airlines phát biểu khai mạc buổi lể
 

 


 Buổi lễ kí kết hợp đồng bảo hiểm diễn ra trang trọng dưới sự chứng kiến của lãnh đạo các bên.


Theo PTI





Phát triển phong trào sưu tập tem

Ngày 19/12 vừa qua, Bộ Thông tin & Truyền Thông (Bộ TTTT) đã ban hành Thông tư 23/2012/TT-BTTTT quy định chi tiết một số nội dung về tem bưu chính.

Theo thông tư trên, việc sưu tập tem bưu chính được khuyến khích; Bộ TTTT và Tổng công ty Bưu điện Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động phát triển phong trào sưu tập tem.

Bên cạnh đó, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam phải bố trí nơi bán tem phục vụ việc sưu tập tại tất cả các Bưu điện tỉnh/thành phố trực thuộc TW.

Một điểm đáng chú ý khác là Bộ TTTT sẽ có quyền sở hữu bản quyền tác giả của mẫu thiết kế tem bưu chính được sử dụng chính thức để in.

Thông tư 23/2012/TT-BTTTT có hiệu lực từ ngày 03/02/2013, thay thế cho Quyết định số16/2005/QĐ-BBCVT.

Theo Thư viện pháp luật




Tin quốc tế

Trung Quốc: Nhân viên chuyển phát bán lại thông tin khách hàng

Cơ quan quản lý ngành công nghiệp bưu chính Trung Quốc đã yêu cầu các doanh nghiệp bưu chính và chuyển phát của quốc gia này phải nâng cấp và thay đổi toàn bộ mạng chuyển phát nhanh.

Yêu cầu này được đưa ra trong bối cảnh có nhiều lo ngại ngày càng gia tăng về việc thông tin cá nhân của khách hàng bưu chính bị rò rỉ và bị chính các nhân viên chuyển phát biến thành hàng hoá để buôn bán.

Trong một công bố gần đây, Vụ Bưu chính Trung Quốc nói rằng các công ty chuyển phát phải đảm bảo bảo mật thông tin người dùng trong các quy trình, thủ tục của họ, cơ quan quản lý sẽ thực hiện kiểm tra bất chợt với các doanh nghiệp, tập trung đặc biệt vào mảng bảo mật thông tin cá nhân khách hàng.

Gần đây, nhiều tờ báo địa phương ở Trung Quốc đã đưa tin về việc các nhân viên chuyển phát bán lại chi tiết thông tin khách hàng. Điều này làm dấy lên mối lo ngại của người dân về việc tiết lộ thông tin cá nhân.

Liu Jun, phó vụ trưởng Vụ Bưu chính nói tại một hội nghị mới đây rằng cơ quan quản lý dự định sẽ xây dựng một hệ thống bảo vệ thông tin người dùng lâu dài trong ngành chuyển phát nhanh.

Bất kỳ ai bị phát hiện phạm tội lạm dụng thông tin cá nhân có thể bị đưa ra xét xử theo luật pháp. Ông Liu nói các công ty không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo vệ thông tin sẽ phải ngừng cung cấp dịch vụ cho đến khi họ nhận thấy mọi vấn đề đã được chấn chỉnh lại.

Ngành công nghiệp chuyển phát Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ nhờ sự bùng nổ của thị trường mua sắm trực tuyến. Theo Bộ thương mại Trung Quốc, ước tính trong 3 quý đầu tiên của năm 2012, thị trường mua sắm trực tuyến đạt 806,2 tỷ nhân dân tệ (192,2 tỷ USD).

Những con số khác của Cục thương mại và Công nghiệp cho thấy hiện có khaongr 210 triệu cửa hàng trực tuyến đang hoạt động.

Hong Zhilong, một quản lý chi nhánh Anzhenmen của hãng chuyển phát ZTO ở Bắc Kinh cho biết việc bán lại các hoá đơn chuyển phát đã trở thành một ngành kinh doanh lớn. “Tôi biết có những công ty chuyên thu thập loại thông tin này và bán lại chúng – tôi luôn nhận được cuộc gọi yêu cầu bán thông tin từ họ”, anh nói.

Hong cho biết theo quy định, các nhân viên chuyển phát được yêu cầu phải giữ những hoá đơn mà khách hàng đã ký trong 1 năm, trước khi nộp chúng lại cho trụ sở của công ty. Tuy nhiên, Hong nói không phải tất cả nhân viên đều tuân thủ quy định, và “có nhiều trường hợp thông tin người dùng đã bị rò rỉ”.

Zhang Guoquan, một quản lý của chi nhánh Tianshuiyuan của công ty chuyển phát Shanghai Yunda Express ở Bắc Kinh, nói anh cũng nhận được các cuộc gọi mời bán thông tin hoá đơn của khách hàng. “Tôi chưa bao giờ nói chuyện với họ. Tôi đã làm trong ngành này hơn 10 năm, và tôi biết uy tín công ty quan trọng như thế nào. Với tôi, đó là vấn đề nguyên tắc”, anh nói.

Trong khi đó, một lĩnh vực khác của ngành chuyển phát cũng đang khiến các nhà quan lý lo ngại là sự tuỳ ý sử dụng các hộp bưu kiện và hoá đơn bưu kiện của cả các công ty chuyển phát và khách hàng. Hồi tháng Hai vừa qua, một toà án ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, đã kết án tử hình một thanh niên 24 tuổi sau khi anh này thú nhận đã giết chết một người phụ nữ, chỉ vì người phụ nữ này đã thu hút sự chú ý của anh ta, do có nhiều hàng hoá mua sắm trực tuyến được chuyển đến nhà bằng dịch vụ chuyển phát nhanh.

Theo trang Nhật báo Toà án của Trung Quốc, người thanh niên này đã để ý số các bưu kiện mà người phụ nữ để bừa bãi trong khu chung cư, vì thế anh ta đã lần ra dấu vết về gia cảnh giàu có của nạn nhân, sau đó giả vờ làm một nhân viên chuyển phát, khi nạn nhân ra mở cửa hắn đã lẻn vào nhà và giết chết nạn nhân, sau đó cướp tài sản.

Ngày 10/12 vừa qua, Vụ Bưu chính đã phát ra thông cáo, nhắc nhở các khách hàng chuyển phát phải huỷ mọi hoá đơn gắn ngoài bưu kiện, đồng thời đảm bảo chúng không để lộ bất cứ thông tin cá nhân nào.

Theo ICTnews