Dõi theo lá thư trên lưng ngựa

Cách vài chục năm hay bây giờ, nhận một lá thư tay hay một email, dòng tin nhắn là vui lắm, háo hức chờ mong lắm. Còn trước đó hơn một thế kỷ, ở thời nhà Nguyễn, công việc tổ chức bưu chính được diễn ra như thế nào. Hãy theo vó ngựa phi và bước chân vạn dặm để ngược dòng tìm hiểu…

Ảnh tư liệu

Mạng lưới trạm dịch chuyển thư tín

Sách Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ - một bộ sách đồ sộ về kho tàng thư tịch bằng Hán văn của triều Nguyễn. Bộ sách tập hợp các chiếu chỉ, nghị chuẩn đã được thi hành, chứa đựng các quy định, thể thức về mọi mặt hoạt động của bộ máy nhà nước từ năm Gia Long thứ 1 (1802) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851).

Qua thông tin từ các chỉ dụ đã được thi hành của các vua Nguyễn trong Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ có nhiều tiến bộ vượt bậc so với các triều đại trước đó. Nét tiến bộ hơn đó là thiết lập các trạm dịch khắp toàn quốc chuyển lưu công văn phục vụ việc quản lý của triều đình và địa phương, tổ chức chặt chẽ hoạt động bưu chính trên một đất nước rộng lớn nhất so với các thế kỷ trước đó.

TS Trần Thị Thanh Thanh, Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm TP HCM cho biết: “Hoạt động của trạm dịch được đặt dưới sự cai quản của Ty bưu chính thuộc Bộ Binh để bảo đảm kỷ luật nghiêm minh, chuyển đạt công văn nhanh chóng, an toàn. Điều hành Ty Bưu chính là các chức Chủ sự, Tư vụ do triều đình bổ nhiệm, có các Thư lại giúp việc do án sát ty của các tỉnh cử đến. Mỗi trạm dịch có một trưởng trạm (Dịch thừa) và một phó trạm (Dịch mục) phụ trách”. Số phu mỗi trạm dịch thường từ 30 đến 100 người, tùy theo địa lý, đường sá và khối lượng công việc.

Mạng lưới nhà trạm lấy kinh thành Huế làm trung tâm, đi ra miền Bắc tới biên giới Việt - Trung, phía Nam đến biên giới Campuchia và Vịnh Thái Lan. Các trạm dịch đặt cách nhau 20 đến 36 lý (khoảng 15 đến 25km). Ngoài việc chuyển đưa thư, công văn của chính quyền và tin tức quân sự biên phòng, hoạt động của nhà trạm còn bao gồm cả việc vận chuyển vật công. Có lúc nhà trạm còn là nơi cung cấp phương tiện giao thông như ngựa, thuyền cho quan lại, hoặc lại nơi dừng chân của sứ giả…

Hoạt động bưu chính chủ yếu sử dụng trạm đường bộ, gọi là lục trạm. Phu trạm thường chạy bộ. Nếu công việc khẩn cấp công văn có chữ “mã thượng phi đệ” thì phu trạm được phi ngựa để chuyển đi. Tùy theo cung đường, mỗi trạm được cấp 3 đến 6 con ngựa khỏe và tiền để nuôi ngựa.

Ngựa khi được giao phải chăm sóc cẩn thận, chu đáo. Theo quy định của triều đình, nếu ngựa già ốm yếu, chức dịch nhà trạm phải trình quan sở tại xem xét, xác nhận và hóa giá bán đi, mua ngựa khỏe bổ sung cho đủ số. Nếu con ngựa bị bệnh hoặc bị thương tích, nhà trạm cũng phải trình lên quan địa phương để cho khám, chữa trị. Khi con ngựa chết phải xác nhận nguyên nhân, làm giấy cam kết nộp cho Bộ binh và mua ngựa mới bổ sung.

Nếu trong 1 năm nhà trạm làm chết 1 hoặc 2 con ngựa thì trưởng và phó trạm sẽ bị xử phạt 40 roi, nếu để 3 con ngựa chết bị phạt 80 trượng (đánh 80 gậy). Nếu trong vòng gần 1 tuần làm chết 2 con ngựa trở lên mà không do dịch bệnh thì quan cai trạm vừa bị đánh đòn và bồi thường cho Nhà nước.

Nói chung việc trông coi ở các trạm rất áp lực: không để mất, lạc thư từ công văn, không được chậm trễ, ngựa chết không nguyên do còn bị phạt nặng, nên trách nhiệm của Dịch thừa và Dịch mục không hề đơn giản.

Tại các vùng có giao thông thủy, đầm lầy, sông ngòi dày đặc như miền Tây, các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên xưa, các trạm gọi là: Thủy trạm. Tại các trạm có đến 9, 10 chiếc ghe, thuyền cho việc đưa công văn, thư từ. Ghe, thuyền được đóng chắc chắn, có mái che và tu bổ thường xuyên.

Phu trạm có nhiều loại phu: Phu chạy bộ, phu cưỡi ngựa, phu chèo thuyền… Ngoài ra còn có loại phu chuyên võng cáng lại đi công vụ, hoặc gồng gánh các vật công… Phu trạm được tuyển từ dân đinh nới các làng xã gần dịch trạm, theo sự phân bố của triều đình. Các phu trạm được cấp tiền, gạo, coi như lương hằng tháng. Họ được cấp giáo dài, dao nhọn làm vũ khí, miễn binh dịch và lao dịch.

Cách vận chuyển công văn, thư từ

Không phải bây giờ mà ngày xưa thư tín, công văn được gửi đi đã đều yêu cầu bí mật an toàn cao. Công văn giấy tờ đều có phong bì dán kín, cuốn lại cho vào một ống bằng tre gọi là “ống trạm”, miệng ống được phong kín, ống cho vào túi vải trắng buộc chặt, tại chỗ buộc được gắn cánh kiến, có đóng dấu địa chỉ gửi công văn. Chiếu văn của vua, chỉ dụ thăng bổ quan lại phải được để vào ống trạm có vẽ rồng. Tất cả các công văn đi và đến đều phải được vào sổ mỗi khi đến trạm. Khi chuyển ống trạm đi, người phu nào cũng phải mang theo vài tờ giấy gọi là tờ trát. Trên tờ trát ghi rõ số người chạy trạm, số ống trạm, nơi đến từng ống trạm. Mỗi khi đến một trạm chuyển tiếp, người phu trạm phải xin đóng ấn chứng nhận thời điểm và số ống trạm được chuyển qua. Căn cứ vào những thông tin đó, các quan chức bưu chính có thể kiểm tra chặt chẽ quá trình chuyển đưa công văn. Đối với những tin tức quan trọng hoặc việc quân sự cơ mật, phải có vật làm tin gọi là bài trạm. Bài trạm thường được làm bằng ngà hoặc sừng, có khắc chữ “phi tốc”, “hỏa tốc”, nơi đặt điếm trạm…

Nếu có công văn khẩn, các trạm phải tức tốc chuyển gấp, không kể ngày đêm. Mỗi trạm được phát 2 lá cờ màu đỏ thêu chữ “mã thượng phi đệ” để làm hiệu. Các trạm phải chọn vài nắm lông đuôi gà trống dài đẹp, dùng chỉ kết lại và bọc đầu cán cờ. Trên đường chạy trạm, cờ hiệu dùng để báo cho dân chúng biết từ xa, tránh đường cho ngựa trạm phi qua. Phu trạm cưỡi ngựa chạy có cờ, nếu lỡ gây tai nạn cho người đi đường, cũng sẽ được miễn tội.

Ngoài việc nhanh, khẩn thì chuyển giao công văn phải đúng thời gian quy định rất chặt chẽ. Phu trạm chuyển công văn nhanh, sớm hơn thời gian được thưởng 1 quan tiền. Nếu đến chậm nửa giờ bị xử phạt 30 roi, chậm 1 giờ bị phạt ngay 30 roi, chậm 1 giờ rưỡi bị phạt ngay 40 roi hoặc nặng hơn tuỳ mức độ quan trọng của công văn.

“Chẳng hạn một bản tấu của Bộ Hình năm 1829, có lần phu trạm đưa thư hạng tối khẩn từ Hà Nội về Huế, theo quy định phải chạy trong 4 ngày 6 giờ, nhưng đã đi mất 5 ngày 10 giờ rưỡi. Phu trạm của 35 trạm trong vụ này đều bị xử phạt ngay 40 trượng. Lại dịch ở Thừa Thiên để chậm 2 giờ rưỡi mới đưa thư đến Bộ, bị phạt mỗi người 40 roi. Quan chức Bộ Hộ nhận ống trạm xong để sau 2 giờ mới mở xem làm chậm công việc, bị phạt mỗi người 30 roi. Nếu việc chuyển công văn bị chậm trễ do mưa lụt, phu trạm phải có giấy chứng thực của quan sở tại. Nếu văn thư bị ướt, lỡ công việc, quan sở tại sẽ xử phạt 100 roi người phu nào chuyển ống trạm ấy..”, TS Trần Thị Thanh Thanh cho biết thêm về những quy định gắt gao đối với người đưa thư.

Nhận định về hệ thống bưu chính thời kỳ đầu nhà Nguyễn từ vua Gia Long đến Tự Đức, TS Trần Thị Thanh Thanh cho rằng: “Hệ thống trạm dịch theo dọc con đường thiên lý Nam Bắc, có tổ chức chặt chẽ, bảo đảm tốt thông tin liên lạc, phản ánh một phần vai trò hành chính khá hoàn thiện của vương triều Nguyễn, một thành tựu đáng ghi nhận của văn minh dân tộc thế kỷ XIX”.

Tuấn Ngọc/Báo PLVN