Tổng hợp báo chí ngành Bưu chính ngày 18/02/2013

Tin trong nước
Phát hành bộ tem kỷ niệm 100 năm ngày sinh Huỳnh Tấn Phát
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Bộ TT&TT, Tổng công ty Bưu Điện Việt Nam (VietnamPost) đã cho phát hành bộ tem bưu chính “Kỷ niệm 100 năm sinh Huỳnh Tấn Phát (1913-1989)”. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát sinh ngày 15/02/1913 tại xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông là Chủ nhiệm báo Thanh Niên, hoạt động trong phong trào Thanh niên Tiền phong, truyền bá quốc ngữ, cứu tế nạn đói ở Nam Bộ. Ông được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 05/3/1945. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông cùng một số trí thức Nam Bộ tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Uỷ viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội. Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông công tác bí mật ở Sài Gòn, bị Pháp bắt giam ở Khám lớn Sài Gòn. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, trực tiếp phụ trách Đài phát thanh Tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn tự do.
Sau Hiệp định Genève, ông ở lại Sài Gòn, làm việc tại văn phòng của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Ông cũng tham gia các phong trào đòi hoà bình, tự do, dân chủ, thống nhất đất nước, đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1960, ông bí mật thoát ly khỏi Sài Gòn, tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương, đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định. Tháng 6/1969, Ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và giữ chức vụ này cho đến ngày Việt Nam thống nhất.
Sau khi Việt Nam thống nhất, năm 1976, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam; làm Trưởng Ban chỉ đạo Quy hoạch Thủ đô và Chủ nhiệm đồ án thiết kế xây dựng thủ đô Hà Nội, chỉ đạo và góp ý kiến các dự án thiết kế quy hoạch các đô thị trong cả nước như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Phan Thiết, Nha Trang, Vũng Tàu, Tây Ninh... Ông còn đảm trách các chức vụ: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông mất ngày 30/9/1989 tại TP.Hồ Chí Minh.
Bộ tem do hoạ sỹ Tô Minh Trang thiết kế theo phong cách đồ hoạ với hình ảnh nổi bật là chân dung Huỳnh Tấn Phát trên nền lá cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, tổ chức gắn liền với sự nghiệp Cách mạng vẻ vang của ông.
Đầu Xuân gặp người sưu tập 3.654 mẫu tem bưu chính cách mạng Việt Nam
Nhà sưu tập Trần Vương Việt (Chủ nhiệm Câu lạc bộ Tem Thủ đô) là một trong số ít nhà sưu tập tem Việt Nam đang sở hữu đầy đủ bộ sưu tập 3.654 mẫu tem và block tem bưu chính Việt Nam dòng cách mạng được phát hành từ 1945 đến nay.
Sưu tập tem theo dòng lịch sử
Năm 12 tuổi bắt đầu sưu tập những con tem thư dán vào sổ tay, đến năm 2013 khi tròn 40 tuổi, Trần Vương Việt đã có trong tay đủ 3.654 mẫu tem và block tem bưu chính dòng cách mạng được phát hành từ năm 1945 đến hết năm 2012, bộ tem cuối cùng là hai mẫu tem Tết Quý Tỵ 2013.
Tem bưu chính Việt Nam dòng cách mạng có các mảng: Tem Đông Dương in đè tiêu đề và mệnh giá sử dụng tạm thời (1945 - 1946); Tem Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945 - 1976); Tem Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1963 - 1969) và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1970 - 1976); Tem Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976 - nay).
Bộ sưu tập tem được bảo quản trong 4 album lớn một cách khoa học và đẹp mắt, các bộ tem và block được sắp xếp theo trình tự phát hành theo từng năm, được đối chiếu theo danh mục của Công ty Tem Việt Nam. Xem hết mới thấy Trần Vương Việt rất công phu đầu tư thời gian, công sức để dựng lên bộ sưu tập tem độc đáo và giá trị này. Mặc dù có nhiều bộ tem được phát hành cách đây hàng chục năm, nhưng hình thức những con tem trong bộ sưu tập còn rất mới, chất lượng tem tốt.
Nhà sưu tập Trần Vương Việt cho biết: "Để sưu tập bộ tem bưu chính Việt Nam dòng cách mạng đầy đủ thế này tôi mất gần 20 năm, trước đây căn cứ vào danh mục in đen trắng, sau tôi căn cứ theo hai cuốn danh mục tem bưu chính Việt Nam được in màu do Công ty Tem phát hành". Nhờ cách sắp xếp khoa học theo danh mục, người xem có thể dễ dàng so sánh, tra cứu bất cứ con tem nào.
Bốn mẫu tem sống Mạc Thị Bưởi (hàng trên) được cho là có giá đắt nhất trên thị trường tem chơi hiện nay, giá khoảng 10 triệu đồng. Ảnh: M.Q
Anh Việt cũng giới thiệu cho phóng viên bộ tem Việt Nam đắt tiền nhất trên thị trường tem chơi hiện nay, đó là bộ 4 mẫu tem sống (tem chưa qua sử dụng - PV) Anh hùng Mạc Thị Bưởi phát hành năm 1956 có giá trên thị trường khoảng 10 triệu đồng. Theo lời anh Việt, lý do bộ tem Mạc Thị Bưởi có giá trị cao vì chính bản thân 4 mẫu tem đã có giá mặt cao gấp nhiều lần những mẫu tem đương thời và đây là bộ tem chủ yếu dùng cho các cơ quan, đơn vị gửi bưu kiện nên có mệnh giá từ 1.000 - 5.000đồng/mẫu tem, trọn bộ mệnh giá 12.000 đồng, trong khi những con tem gửi thư cùng thời chỉ 5 đồng - 100 đồng. Do mệnh giá đắt so với cùng thời nên ít người lưu trữ, trên thị trường tem chơi bộ tem Mạc Thị Bưởi dù là tem chết (tem thực gửi qua đường bưu điện hoặc có dấu hủy theo lệnh - PV) cũng có giá trên 1 triệu đồng.
Cũng theo lời anh Việt, những block Chim cò, block Lê Nin, những bộ tem có giá trị lịch sử như bộ tem bắn rơi 1.500 máy bay Mỹ có 1 mẫu in đè ngày 14/10/1966, bộ tem Ngũ Hổ có 5 con tem và 1 block phát hành năm 1971 trên nền tranh dân gian Hàng Trống (Hà Nội), bộ tem 2 mẫu in bản đồ cổ về quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa phát hành từ năm 1982,… cũng thường được giới sưu tập tìm kiếm để phục vụ cho những bộ sưu tập chuyên đề.
Bên cạnh đó, các mẫu tem trong danh mục không có (do đã phát hành nhưng bị đình bản hoặc đã in ra nhưng không được phát hành do có sai sót trong thiết kế mẫu) cũng có đủ trong bộ sưu tập của anh Việt. Ví dụ, hai mẫu tem nhà cách mạng Ngô Gia Tự (mã số 392 phát hành năm 1965 và mã số 851 phát hành năm 1975) đã bị đình bản do in sai mẫu chân dung; hay như tem về nhà giáo Chu Văn An bị đình bản vào năm 1992 do thiết kế sai về bố cục; hoặc như 2 tem và block Đại hội Đảng 1982 không được phát hành, block Cá quả không phát hành năm 1963, …
Chơi tem là phải có duyên!
Trả lời câu hỏi: Sưu tập đủ tất cả các mẫu tem Việt Nam theo danh mục có khó không, anh Việt cho hay: "Không khó, cái chính là phải có duyên và kiên nhẫn bởi có một số bộ tem cần bỏ thời gian tìm kiếm công phu và muốn sở hữu không chỉ dùng tiền mua là có". Thực tế, trên thị trường tem chơi có đủ hết những bộ tem Việt Nam trong danh mục nhưng điều quan trọng nhất người chơi phải tìm hiểu kiến thức về sưu tập, biết giá trị của từng con tem để mua được giá hợp lý nhất. Anh Việt cho biết: "Bộ sưu tập này, riêng toàn bộ số tem trong danh mục từ năm 1945 đến 2005, cách đây mấy năm đã có một người Nhật Bản trả giá 7.000 USD nhưng tôi không bán".
Chia sẻ về những khó khăn của người chơi tem, anh Việt cho rằng, người sưu tập tem hiện nay thường tránh kiểu chơi tem truyền thống do phải đầu tư rất lớn, vì khi đó không thể tránh được việc phải có những bộ tem trị giá hàng triệu đồng và để có được bộ sưu tập chất lượng cao cũng mất rất nhiều thời gian, tốn kém thậm chí hàng trăm triệu đồng.
Bưu Điện Việt Nam: Sang "trang sử" mới
Bưu chính - Viễn thông: 67 năm chung một "nhà"
Lễ bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại VietnamPost từ Tập đoàn VNPT về Bộ TT&TT diễn ra sáng 19/12/2012 là một dấu mốc quan trọng, khép lại hành trình hơn chục năm thực hiện chia tách bưu chính và viễn thông (BC-VT) tại Việt Nam, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới cho cả bưu chính và viễn thông.
Còn nhớ, bước vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 - PV), với nguồn ngoại tệ tích lũy được qua thanh toán, trao đổi dịch vụ BC-VT với các nước, trong đó có nguồn thu từ dịch vụ bưu phẩm bưu kiện quốc tế, Tổng cục Bưu điện đã đầu tư lắp đặt những thiết bị số hóa đầu tiên tại Việt Nam như: đài thông tin vệ tinh Intelsat tại TP.HCM, tổng đài điện tử E-10B tại Hà Nội… tạo ra những bước chuyển mạnh của thời kỳ số hóa mạng viễn thông, mở ra trang sử mới cho lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam. Cùng với quá trình số hóa đó, gần 3.000 cán bộ, nhân viên của viễn thông là các điện báo viên, nhân viên trực tổng đài đã được đào tạo lại và trở thành các giao dịch viên, khai thác viên của mạng lưới bưu chính. Trong giai đoạn tiếp theo, đặc biệt là trong gần 10 năm triển khai kế hoạch tăng tốc (1993 - 2000), lĩnh vực viễn thông đã phát triển mạnh mẽ, mang lại lợi nhuận lớn cho ngành.
Ông Bình cho biết, thực hiện lộ trình chia tách BC-VT, từ 2008 VietnamPost được thành lập và hoạt động độc lập trong Tập đoàn VNPT. 5 năm qua, sự hỗ trợ của VNPT về tài sản, nhà đất, nguồn vốn và các hoạt động SX-KD đã góp phần tạo điều kiện để VietnamPost đạt được những thành quả ban đầu, từng bước tự đứng vững trên đôi chân của mình. Quyết định 1746/QĐ-TTg ngày 16/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ chuyển quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại VietnamPost từ Tập đoàn VNPT về Bộ TT&TT không những khẳng định sự trưởng thành của Bưu chính Việt Nam mà còn cho thấy VNPT đã hoàn thành tốt vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện để VietnamPost tập dượt, chuẩn bị các điều kiện cần thiết trước khi ra “ở riêng”. Với quyết định này, kể từ ngày 1/1/2013, VietnamPost chính thức được tách ra hoạt động độc lập hoàn toàn với Tập đoàn VNPT, có tên gọi mới là Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam, hoạt động theo mô hình Công ty TNHH một thành viên không có Hội đồng thành viên, với cơ cấu quản lý gồm Chủ tịch Công ty, Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
Bước sang giai đoạn phát triển mới, dẫu không còn chung một “mái nhà”, trở thành hai pháp nhân độc lập với nhau, song lãnh đạo VNPT và VietnamPost đều khẳng định mối quan hệ hợp tác, gắn bó giữa bưu chính và viễn thông vẫn sẽ tiếp tục được hai bên nuôi dưỡng, duy trì trong điều kiện, môi trường mới.
Từ 1/1/2013: VietnamPost tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
Với riêng VietnamPost, trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng cho hay, việc VietnamPost được tách ra hoạt động độc lập với VNPT từ 1/1/2013 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho VietnamPost trong quá trình hoạt động. Tới đây, các công việc mà VietnamPost thực hiện sẽ do Chủ tịch, Tổng giám đốc của VietnamPost chủ động quyết định.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng, một vấn đề lớn mà VietnamPost cần tiếp tục thực hiện là tái cấu trúc lại đơn vị. "Những vấn đề VietnamPost đang mắc phải chính là chất lượng dịch vụ, cũng do việc tổ chức sản xuất, tổ chức mạng lưới tạo ra. Cho nên, việc tập trung giải quyết các tồn tại về mặt cấu trúc, tổ chức sẽ phải được VietnamPost ưu tiên hàng đầu”, Thứ trưởng nói.
Ban lãnh đạo VietnamPost cũng nhận thức rõ một thách thức không nhỏ là từ sau 2013, VietnamPost sẽ không còn được Nhà nước hỗ trợ công ích trực tiếp bằng tiền nhưng vẫn phải đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích. Những lộ trình phát triển trong giai đoạn hoạt động độc lập hoàn toàn với VNPT đã được VietnamPost khởi động hoạch định từ khi mới thành lập (năm 2008).
Theo chiến lược phát triển của VietnamPost đến 2020, song song với việc đảm bảo duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng, thực hiện các nhiệm vụ công ích Nhà nước giao; một nhiệm vụ quan trọng nữa sẽ được VietnamPost tập trung là thúc đẩy phát triển kinh doanh trên cơ sở mạng bưu chính công cộng nhằm nâng cao hiệu quả của mạng lưới, tăng doanh thu, lợi nhuận và nâng cao năng suất lao động của đơn vị. Chiến lược VietnamPost cũng xác định rõ định hướng phát triển dịch vụ sẽ tập trung vào 3 mảng kinh doanh cơ bản gồm: bưu chính chuyển phát, tài chính bưu chính và phân phối - truyền thông. Với định hướng này, VietnamPost đặt mục tiêu đến đến 2015 tổng doanh số của đơn vị phải đạt từ 12.000 - 13.000 tỷ đồng và lợi nhuận bước đầu phải đạt từ 100 - 200 tỷ đồng; đến năm 2020 dự kiến VietnamPost sẽ đạt 28.000 - 30.000 tỷ đồng doanh thu và 800 tỷ đồng lợi nhuận.
Phát biểu tại lễ bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại VietnamPost từ VNPT về Bộ TT&TT ngày 19/12, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Bắc Son đã khẳng định, mục đích của việc chia tách hoạt động bưu chính, viễn thông là vì lợi ích phát triển chung, nhằm thực hiện chủ trương tiếp tục đổi mới và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Việc chuyển quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với VNPost từ Tập đoàn VNPT về Bộ TT&TT không làm thay đổi bản chất quản lý, hoạt động, quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong nội bộ VietnamPost. Bộ trưởng cũng cho biết, thực hiện vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời là cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại VietnamPost, Bộ TT&TT sẽ tiến hành trực tiếp chỉ đạo việc kiện toàn tổ chức, bộ máy của VietnamPost, đề cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho VietnamPost có thêm nguồn lực mới, cơ chế chính sách thuận lợi để phát triển, hoàn thành tốt các nhiệm vụ trong thời gian tới.
Thương hiệu mới Vietnam Post với chiến lược "3 trụ cột"
Hướng mạnh về cộng đồng
Ngày 20/12/2012, ngay sau khi VNPT tổ chức bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại VietnamPost về Bộ TT&TT, VietnamPost đã chính thức ra mắt thương hiệu mới “Bưu điện Việt Nam” với biểu trưng (logo) là hình ảnh lá thư đang mở cùng câu khẩu ngữ (slogan) “Gửi cả niềm tin”. Theo đại diện lãnh đạo VietnamPost, thương hiệu và hệ thống nhận diện thương hiệu mới của VietnamPost chính là sự “ánh xạ”, thể hiện rõ định hướng chiến lược, tầm nhìn của Tổng Công ty trong giai đoạn phát triển mới.
Tách ra hoạt động độc lập với Tập đoàn VNPT, VietnamPost định hướng trở thành doanh nghiệp dẫn đầu thị trường, tập trung vào ba mảng kinh doanh chính là bưu chính chuyển phát, tài chính bưu chính và phân phối - truyền thông, trong đó bưu chính chuyển phát vẫn là dịch vụ cốt lõi. Với định hướng chiến lược này, VietnamPost quán triệt nguyên tắc: thông qua hệ thống mạng lưới rộng khắp, cung cấp những dịch vụ phổ cập tới mọi người dân, mọi nhà với sự gần gũi, thân thiện và độ tin cậy cao. Đại diện VietnamPost nhấn mạnh: “Để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cộng đồng và xã hội, dựa trên mối liên kết giữa cá nhân và doanh nghiệp, chúng tôi xác định phải tạo thêm giá trị thiết thực hơn trên mỗi sản phẩm, dịch vụ với phong cách phục vụ đặt khách hàng là trọng tâm”.
Chia sẻ về lý do VietnamPost cho ra mắt thương hiệu mới, ông Nguyễn Quốc Vinh - Phó TGĐ VietnamPost cho biết, trước đây lĩnh vực bưu chính và viễn thông sử dụng chung hệ thống nhận diện thương hiệu của Tập đoàn VNPT. Thực hiện lộ trình chia tách bưu chính với viễn thông, theo Quyết định 1746/QĐ-TTg ngày 16/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ, từ 2013 Bưu chính sẽ tách ra hoạt động độc lập hoàn toàn với Tập đoàn. Mặt khác, hơn 10 năm qua, Viễn thông phát triển mạnh, tạo được ấn tượng sâu sắc trong xã hội, do đó việc dùng chung thương hiệu VNPT, mảng Bưu chính có phần bị “lép vế”. “Chúng tôi thấy rằng trong giai đoạn phát triển mới, VietnamPost phải có hệ thống nhận diện thương hiệu độc lập, gắn liền với tính chất ngành nghề cũng như trách nhiệm của Bưu chính trong việc cung cấp các dịch vụ bưu chính công ích, tham gia những chương trình bảo trợ xã hội chung của Chính phủ”, ông Vinh nói.
Thể hiện sự tự chủ của VietnamPost
Từ 1/1/2013, logo, slogan và hệ thống nhận diện thương hiệu mới của Bưu điện Việt Nam đã được đưa vào ứng dụng thực tế. Tới đây, toàn bộ hệ thống văn phòng, bưu cục, nhà xưởng, kho bãi, xe bưu chính cùng trang phục cán bộ công nhân viên, hóa đơn, chứng từ… của VietnamPost sẽ phải thay đổi, mang hình ảnh nhận diện thương hiệu mới. Đây là khối lượng công việc vô cùng lớn bởi lẽ mạng lưới của VietnamPost hiện có 64 đơn vị trực thuộc với trên 14.000 điểm phục vụ, hàng trăm xe bưu chính cùng hơn 42.000 lao động. Vì vậy, Ban lãnh đạo VietnamPost đã xác định, việc đưa vào ứng dụng thực tế hệ thống nhận diện mới của Bưu điện Việt Nam sẽ được triển khai từng bước, bắt đầu từ những ứng dụng cơ bản, thông dụng.
Trao đổi với báo BĐVN, ông Nguyễn Quốc Vinh cho hay, với việc tách ra hoạt động độc lập hoàn toàn, xây dựng và đưa vào ứng dụng hệ thống nhận diện thương hiệu riêng, VietnamPost hy vọng thể hiện được sự độc lập, tự chủ của dịch vụ bưu chính. Với hệ thống nhận diện thương hiệu này, sự nhận biết của người dân cũng như việc cung cấp các sản phẩm bưu chính chuyển phát, tài chính bán lẻ của Bưu điện Việt Nam sẽ thuận lợi hơn.
Logo của Bưu điện Việt Nam gồm phần biểu tượng hình ảnh và phần chữ “Vietnam Post” được thiết kế trên ý tưởng một lá thư đang mở, với điểm khởi đầu ở bên trái thể hiện nền móng cố định và vững chãi, là hình ảnh đại diện vừa mang tính truyền thống của lĩnh vực bưu chính trên toàn cầu vừa có đặc thù cơ bản là di sản mang tính kế thừa qua nhiều năm của ngành Bưu điện. Hình ảnh lá thư đang mở của logo kết hợp cùng tầm nhìn thương hiệu “Delivering more” thể hiện bằng 4 vạch ngang màu vàng được thiết kế hướng lên cao tại nên hình ảnh chữ “V” cách điệu vững chắc, tượng trưng cho phần viết tắt của VietnamPost và chữ Việt Nam, đồng thời là hình ảnh ước lệ cho một cánh chim đang bay biểu trưng cho tính chất hoạt động đặc thù, sự năng động và không ngừng phát triển mở rộng của Bưu điện Việt Nam trong điều kiện mới.

Logo của Bưu điện Việt Nam sử dụng 2 màu đặc trưng là vàng cam và xanh dương. Trong đó, màu vàng cam làm chủ đạo cho phần biểu tượng với hàm ý là sắc màu của sự ấm áp, thân thiện cũng như thể hiện sự tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết của đội ngũ nhân lực, là tinh thần năng động và một niềm tin phát triển bền vững chắp cánh cho thương hiệu Bưu điện Việt Nam vươn tới những mục tiêu xa hơn trong chiến lược kinh doanh và phát triển tương lai; còn màu xanh dương trong phần biểu tượng chữ “Vietnam Post” thể hiện sự thanh bình, biểu trưng cho tính kết nối, gắn bó với ý nghĩa: những sản phẩm dịch vụ của Bưu điện Việt Nam luôn gắn kết mọi thông điệp, tình cảm và tạo dựng niềm tin đối với cộng đồng, đối tác ở mọi điểm đến trên hành trình hoạt động của Bưu điện Việt Nam đối với những giá trị cốt lõi cũng như các lĩnh vực hoạt động khác. Đây cũng chính là những màu sắc chủ đạo của hệ thống nhận diện thương hiệu của Bưu điện Việt Nam.
VietnamPost thưởng 100 triệu đồng cho các đơn vị phục vụ Tết
Tin từ Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VietnamPost) vừa cho biết, ngay trước kỳ nghỉ Tết Quý Tỵ, VietnamPost đã chi 100 triệu đồng để thưởng cho các đơn vị đã làm tốt công tác khai thác, vận chuyển bưu gửi, phát hành báo chí trong dịp Tết Quý Tỵ.
Những ngày giáp Tết, các Trung tâm Khai thác Vận chuyển trực thuộc các đơn vị: Bưu Điện TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Bình Định và Công ty Phát hành báo chí Trung ương đã tổ chức tốt công tác phục vụ lưu lượng tăng đột biến trong tháng giáp Tết. Đặc biệt, có những ngày sản lượng tăng gấp đôi so với ngày thường nhưng hoạt động khai thác, vận chuyển trên mạng lưới được thực hiện nhanh, đảm bảo bưu gửi được lưu thoát hết trong ngày. VietnamPost đã có 125 lệnh điều hành vận chuyển tăng cường xe chuyên ngành, còn Bưu điện Hà Nội và Bưu điện TP Hồ Chí Minh đã thuê 221 chuyến xe xã hội để vận chuyển bưu gửi Tết.
Bên cạnh đó, các Trung tâm Khai thác Vận chuyển thuộc 4 Bưu điện kể trên cũng phối hợp chặt chẽ với Công ty Phát hành báo chí Trung ương đảm bảo lưu thoát hết trước Tết Nguyên đán báo Tết (331 loại báo, tạp chí với sản lượng khai thác 1,84 triệu tờ/cuốn).
Để ghi nhận thành tích, động viên sự cố gắng của các đơn vị trong công tác khai thác, chuyển phát, kinh doanh, phục vụ Tết Nguyên đán, VietnamPost đã quyết định thưởng cho các đơn vị trên 100 triệu đồng.
Chiều ngày 7/2/2013 (27 tháng Chạp), Phó Tổng giám đốc VietnamPost Nguyễn Quốc Vinh đã đến thăm chúc Tết và trao thưởng cho Trung tâm Khai thác Vận chuyển thuộc Bưu Điện TP Hà Nội, một trong những đơn vị chủ chốt làm công tác khai thác, chuyển phát bưu gửi của mạng lưới Bưu Điện Việt Nam.
Công đoàn Bưu điện Quảng Nam Tổng kết hoạt động công đoàn năm 2012
Năm 2012, Công đoàn Bưu điện tỉnh đã đồng hành cùng với chuyên môn biến khó khăn, thách thức thành động lực thi đua phấn đấu vươn lên, tập trung đẩy mạnh SXKD với doanh thu tính lương tăng trưởng gần 10% so với năm 2011, năng suất lao động tăng trưởng 14% và thu nhập bình quân đạt 5,2 triệu đồng, tăng trưởng trên 10% so với năm 2011.
Với những kết quả đã đạt được, Công đoàn Bưu điện tỉnh Quảng Nam đã được Công đoàn Bưu điện Việt Nam tặng Cờ thi đua xuất sắc và LĐLĐ tỉnh tặng Bằng khen năm 2012.
Mục tiêu trọng tâm trong năm 2013 của Công đoàn Bưu điện tỉnh là tập trung đẩy mạnh các phong trào thi đua trong từng dịch vụ, luôn sát cánh đồng hành với chuyên môn đẩy mạnh công tác bán hàng, góp hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch giao, nâng cao thu nhập người lao động. Đồng thời, tập trung chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp, các chỉ thị phát động thi đua của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam và các chủ dịch vụ.
Nhân dịp này, Công đoàn Bưu điện tỉnh cũng đã phát động phong trào thi đua năm 2013 của chuyên môn và Công đoàn Bưu điện tỉnh; khen thưởng, tôn vinh các tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc toàn diện trong năm 2012. Bên cạnh đó, tuyên truyền, phổ biến chức năng, vai trò và nhiệm vụ của Tổ trưởng Tổ công đoàn trong tình hình đổi mới của Ngành nhằm nâng cao hiệu quả và phát huy tốt hơn nữa chức năng của tổ chức công đoàn các cấp tại Bưu điện tỉnh trong năm 2013 và những năm tiếp theo.
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son trả lời phỏng vấn báo chí về những vấn đề nổi bật của Ngành trong năm 2013
Nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ, các cơ quan báo chí gồm: Đài truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Thông tấn xã Việt Nam, truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, báo Nhân dân, Hà Nội mới… đã có buổi phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son về những thành tựu nổi bật của ngành năm 2012, những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp của ngành năm 2013 và một số vấn đề nổi bật khác như sự phát triển của Internet, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Luật Xuất bản sửa đổi, truyền hình trả tiền… Dưới đây, Trang Thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông trân trọng giới thiệu với độc giả nội dung cuộc phỏng vấn này.
Phóng viên (PV): Năm qua, phát triển kinh tế - xã hội trong nước gặp nhiều khó khăn, tình hình biên giới biển đảo cũng có diễn biến phức tạp… Xin Bộ trưởng cho biết ngành Thông tin và Truyền thông đã cùng cả nước vượt khó như thế nào và cũng xin Bộ trưởng cho biết những thành tựu nổi bật của ngành trong năm 2012?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Trong năm 2012, ngành đã có đóng góp toàn diện và xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Báo chí, xuất bản làm tốt nhiệm vụ là công cụ phục vụ hiệu quả sự chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo sự đồng thuận xã hội; phục vụ hiệu quả hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền biển đảo; là lực lượng chủ lực xóa nghèo thông tin, nâng cao dân trí, thúc đẩy tiến bộ xã hội, an sinh xã hội.
Viễn thông, Internet, công nghệ thông tin đã hình thành hạ tầng mềm cho ngày càng nhiều các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, nền tảng cho việc gắn kết và nâng cao hiệu quả khai thác các hạ tầng kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI.
Ứng dụng CNTT trong cơ quan quản lý nhà nước đóng góp tích cực cho cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính công minh bạch, hiện đại và hiệu quả.
Trong năm 2012, ngành Thông tin và Truyền thông có thể tự hào đã cùng cả nước vượt qua khó khăn, thách thức và đã có những đóng góp xứng đáng vào kết quả chung về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Cụ thể:
* Báo chí, xuất bản đã thực hiện tốt nhiệm vụ là phương tiện thông tin, tuyên truyền thiết yếu, là công cụ chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong định hướng dư luận, tạo đồng thuận xã hội, làm cho nhân dân tin tưởng và ủng hộ các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Hiện nay, cả nước có 812 cơ quan báo in với hơn 1084 ấn phẩm, 59 báo điện tử, 11 tạp chí điện tử, hơn 1000 trang thông tin điện tử tổng hợp, hàng trăm mạng xã hội trực tuyến đã thông tin kịp thời, đầy đủ tình hình kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng; phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; thông tin đầy đủ về bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo.
- Báo chí, xuất bản nhất là 4 loại hình báo chí in – nói – hình – điện tử đã trở thành lực lượng chủ lực trong xoá nghèo về thông tin, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo; góp phần nâng cao dân trí; ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh, thúc đẩy tiến bộ xã hội…Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay, các loại hình báo chí, xuất bản rất đa dạng và đáp ứng ngày càng tốt hơn quyền thụ hưởng thông tin của người dân.
- Báo chí, xuất bản điện tử là công cụ hữu hiệu cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền quốc gia... khi đưa kịp thời và đầy đủ thông tin chính thống về Việt Nam đến với thế giới.
* Trong lĩnh vực viễn thông, Internet, công nghệ thông tin, với tư duy quản lý phải theo kịp sự phát triển của xã hội và thúc đẩy cạnh tranh, ngành Thông tin và Truyền thông đã thành công trong việc phát triển một ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, đặc biệt đã hình thành được một hạ tầng mềm tạo môi trường hoạt động cho nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Đây chính là nền tảng cho việc gắn kết và nâng cao hiệu quả khai thác các hạ tầng kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI.
- Về phổ cập dịch vụ viễn thông - Internet: Cả nước hiện có trên 31,2 triệu người sử dụng internet, đứng thứ 18/20 quốc gia có số người sử dụng internet lớn nhất thế giới.
- Doanh nghiệp viễn thông kinh doanh hiệu quả và đóng góp lớn cho ngân sách: Trong bối cảnh hàng loạt doanh nghiệp thua lỗ, phá sản hoặc hoạt động cầm chừng, 2 tập đoàn viễn thông chủ lực của Nhà nước là VNPT và Viettel vẫn đạt tăng trưởng tốt, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. VNPT đạt doanh thu trên 130 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận đạt trên 8,5 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách 7,5 nghìn tỷ đồng. Doanh thu của Viettel là 141 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận đạt 27.514 tỷ đồng và nộp ngân sách trên 11.377 tỷ đồng. Các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đã làm chủ sân nhà. Mật độ thuê bao điện thoại đạt trên 100%. Dịch vụ viễn thông là dịch vụ duy nhất có giá dịch vụ ngày càng rẻ, góp phần thiết thực trong việc thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” với 100% người Việt trong nước dùng dịch vụ điện thoại của các doanh nghiệp viễn thông nước nhà.
- Công nghiệp công nghệ thông tin xuất khẩu gần 20 tỷ USD (tương đương 417,1 nghìn tỷ đồng - PV): Cùng với viễn thông, công nghiệp công nghệ thông tin tiếp tục đóng góp lớn cho xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện, điện thoại và các loại linh kiện,… đạt hơn 18 tỉ USD (tương đương 375,4 nghìn tỷ đồng - PV).
- Ứng dụng công nghệ thông tin cải cách hành chính: Ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh. Đến nay, 100% các Bộ, tỉnh đã có Cổng thông tin điện tử trực tuyến cung cấp thông tin và dịch vụ công phục vụ người dân và doanh nghiệp. Qua đó, ứng dụng công nghệ thông tin đã đóng góp thiết thực cho đổi mới phương thức làm việc, hướng tới nền hành chính công minh bạch và hiệu quả. Theo báo cáo đánh giá Chính phủ điện tử năm 2012 của Liên hiệp quốc, xếp hạng của Việt Nam tăng 7 bậc, đứng thứ 83 thế giới, thứ 4 Đông Nam Á, thứ 9 Châu Á.
PV: Trong thông điệp đầu năm 2013 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết “Kiên quyết khắc phục yếu kém, vượt qua khó khăn, tiếp tục kiềm chế lạm phát, bảo đảm tăng trưởng, đưa đất nước phát triển bền vững”. Theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng, xin Bộ trưởng cho biết những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp của ngành Thông tin và Truyền thông trong năm 2013.
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt, năm 2013 nhiều khả năng tiếp tục là một năm khó khăn cho nền kinh tế, trong đó có ngành Thông tin và Truyền thông. Đây cũng là năm thứ ba, năm bản lề trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Vì vậy, toàn ngành Thông tin và Truyền thông sẽ nghiêm túc quán triệt tinh thần chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong Thông điệp đầu năm, cũng như 9 nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ cụ thể:
1- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2013.
- Kịp thời tuyên truyền các giải pháp của Chính phủ trong điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với 9 nhiệm vụ, giải pháp như Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ; tuyên truyền về những sự kiện quan trọng của đất nước và quốc tế; tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo và các nhiệm vụ an ninh quốc phòng.
2- Chủ động trong việc cung cấp thông tin chính thống kịp thời và đầy đủ; tích cực phát triển nội dung lành mạnh trên mọi phương tiện thông tin và truyền thông theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; ngăn chặn có hiệu quả việc lợi dụng các phương tiện thông tin và truyền thông, đặc biệt là Internet cho những mục đích xấu.
3- Nâng cao vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động báo chí, theo đó các cơ quan báo chí phải bám sát hơn mục đích tôn chỉ; các nhà báo tiếp tục nâng cao trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp, các cơ quan tổ chức thực hiện tốt nghĩa vụ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình với xã hội; các cơ quan có thẩm quyền phối hợp chặt chẽ và có phản ứng nhất quán và kịp thời trước các sự kiện xã hội quan tâm; người dân nâng cao tri thức và văn hóa trong sử dụng thông tin và bày tỏ chính kiến…
4- Tăng cường quản lý thông tin trên Internet, trò chơi trực tuyến (game online), SIM trả trước, tin nhắn rác để tạo lập môi trường Internet và viễn thông ngày càng tin cậy với người sử dụng, cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững, tạo cuộc sống bình yên trong đời sống thực cũng như trên môi trường mạng.
5- Tiếp tục củng cố và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về hiệu quả khai thác ứng dụng hạ tầng thông tin trong cơ quan nhà nước và toàn xã hội. Khai thông các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển hạ tầng thông tin theo tinh thần Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI, đặc biệt là hạ tầng băng rộng, nội dung số, một số cơ sở dữ liệu trọng điểm quốc gia về dân cư, đất đai,… .
6- Thực hiện tốt vai trò đại diện chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ đạo tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực Thông tin và Truyền thông theo Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ theo hướng mô hình tổ chức tinh gọn, phương thức quản trị tiên tiến, tạo cơ chế cho doanh nghiệp năng động và tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
PV: Viễn thông, Internet thời gian qua đã phát triển rất nhanh, được xã hội đánh giá cao nhưng đồng thời xã hội cũng đang khá lo ngại về một số hệ lụy của sự phát triển quá nóng như tin nhắn rác, lừa đảo qua tin nhắn và trên mạng, bán thông tin cá nhân, lạm dụng tự do trên Internet để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc,… Xin Bộ trưởng cho biết nỗ lực cải thiện tình hình này trong thời gian tới?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Đúng là an toàn, an ninh thông tin đang trở thành một thách thức lớn và lâu dài cho sự phát triển bền vững và hiệu quả hạ tầng thông tin ở nước ta. Đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định thành công của chính phủ điện tử, thương mại điện tử... Việc đảm bảo an toàn an ninh thông tin cũng là đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sử dụng; đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn.
Tôi cho rằng, sự phát triển với tốc độ chóng mặt của viễn thông, Internet và các ứng dụng trên nó, nhất là các ứng dụng về truyền thông xã hội như diễn đàn, mạng xã hội và blog... một mặt đã góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng về chia sẻ thông tin và giao tiếp cá nhân của cộng đồng nhưng nó cũng rất dễ bị lợi dụng để thực hiện các hoạt động phi pháp. Trong đa số trường hợp người sử dụng không bắt buộc phải định danh thật và có thể ở các nước khác nhau với hệ thống luật lệ thể chế khác nhau nên việc xử lý các hành vi vi phạm là hết sức khó khăn.
Tuy nhiên, với tư duy quản lý phải theo kịp sự phát triển và hướng tới thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của hạ tầng thông tin, Việt Nam đã nhất quán chính sách thúc đẩy việc sử dụng viễn thông, Internet trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Mặt khác, Việt Nam kiên quyết áp dụng mọi biện pháp trong khả năng để ngăn chặn những hành vi lợi dụng viễn thông, Internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục và vi phạm các quy định pháp luật; có các biện pháp bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên khỏi tác động tiêu cực của Internet...
Trong năm 2012, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì xây dựng, ban hành một số văn bản pháp quy quan trọng, tạo dựng hành lang pháp lý quản lý đồng bộ để hạn chế tin nhắn rác, SIM rác như:
- Nghị định số 77/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác;
- Thông tư số 04/2012/TT-BTTTT về quản lý thuê bao di động trả trước;
- Thông tư số 14/2012/TT-BTTTT về quản lý giá cước dịch vụ thông tin di động mặt đất;
- Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet (đã trình Thủ tướng Chính phủ).
Điểm nhấn quan trọng của các văn bản pháp quy này đối với hoạt động quản lý tin nhắn rác, SIM rác là sự kết hợp đồng bộ giữa biện pháp hành chính (cá nhân phải cung cấp thông tin cá nhân thật khi sử dụng dịch vụ) với biện pháp kinh tế (quản lý giá cước trên cơ sở giá thành, tách bạch giữa cước hoà mạng di động và cước sử dụng dịch vụ di động, quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên kho số).
Nghị định 97/2008/NĐ-CP sửa đổi cũng sẽ quy định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, thông tin trên mạng và của người sử dụng Internet. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng hiệu quả của các biện pháp mới phụ thuộc rất nhiều vào việc sớm xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an thực hiện khẩn trương hơn nhiệm vụ này.
Hoạt động đảm bảo an toàn an ninh thông tin sẽ tiếp tục là mối quan tâm của Bộ Thông tin và Truyền thông trong những năm tới. Trước mắt, Bộ sẽ đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự thảo Luật An toàn thông tin số để Chính phủ có thể trình Quốc hội xem xét thông qua trong năm 2014. Dự kiến, Luật sẽ có quy định đảm bảo an toàn cho hệ thống và hạ tầng thông tin trọng yếu; quản lý và chia sẻ thông tin số; bảo vệ thông tin cá nhân, thông tin riêng trên mạng; chống thư rác và tin nhắn rác; quy định về lọc nội dung thông tin số trên mạng...
PV: Năm 2012, thị trường viễn thông Việt Nam chứng kiến một số biến động như mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, rút khỏi thị trường, khuyến mại “khủng”,... Năm 2013 Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ phải triển khai Quy hoạch viễn thông quốc gia đến năm 2020 đồng thời với thực hiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thông tin truyền thông. Xin Bộ trưởng cho biết việc này sẽ tác động như thế nào đến thị trường viễn thông, công nghệ thông tin trong năm 2013?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Năm qua, thị trường viễn thông Việt Nam có những biến động đáng chú ý như EVN Telecom chuyển về Viettel, Công ty VimpelCom (Nga) rút vốn khỏi Công ty Cổ phần viễn thông di động toàn cầu GTel; một số giấy phép viễn thông bị thu hồi; xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh thông qua khuyến mại trái phép... Nguyên nhân chủ yếu là thị trường viễn thông đã rất cạnh tranh, kinh tế lại đang gặp khó khăn nên một số doanh nghiệp đã không thể duy trì được hoạt động kinh doanh. Mặt khác, quản lý nhà nước về viễn thông nói riêng và quản lý đầu tư công của nhà nước nói chung được tăng cường nên không có chỗ đứng cho các doanh nghiệp yếu kém cho dù là doanh nghiệp nhà nước.
Những biến động này của thị trường phù hợp với định hướng phát triển bền vững thị trường viễn thông theo Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến 2020 đã được Thủ tướng ban hành. Trong năm 2013, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch, trong đó có tái cơ cấu các doanh nghiệp nhằm hình thành ít nhất 3-4 doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao trên mỗi thị trường quan trọng như di động, Internet băng rộng, cố định đường dài trong nước và quốc tế.
Đến nay, các doanh nghiệp có hạ tầng mạng- nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu dịch vụ và doanh thu trên thị trường - là doanh nghiệp nhà nước nên tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực viễn thông đồng nghĩa với cơ cấu lại phần lớn thị trường viễn thông. Việc tái cơ cấu sẽ bám sát mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng nhiều biện pháp trong đó có tạo điều kiện cho việc mua bán, sáp nhập, thu hồi giấy phép, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả. Bộ sẽ tăng cường công tác thực thi trong cấp giấy phép, quản lý kết nối, giá cước, kho số, khuyến mại; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh...
Các biện pháp quản lý sẽ duy trì và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh song song với việc hỗ trợ đầu tư phát triển viễn thông công ích phục vụ các vùng sâu, vùng xa và các đối tượng mà cơ chế thị trường hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, tôi cho rằng, trong năm 2013 xu hướng chủ đạo của thị trường viễn thông là phát triển bền vững, hướng tới hiệu quả, chất lượng, cạnh tranh lành mạnh.
PV: Tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI về phát triển hạ tầng thông tin, đánh giá về vai trò của ứng dụng thông tin và truyền thông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đưa ra quan điểm “Phi tin bất phú”. Quan điểm này cho thấy sự cấp thiết phải triển khai thành công Đề án sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin, Chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước và Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở. Xin Bộ trưởng cho biết liệu có các giải pháp bứt phá nào về ứng dụng công nghệ thông tin trong năm 2013 không khi mà đánh giá sơ bộ 2 năm vừa qua cho thấy những kết quả rất khiêm tốn?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Tại Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và toàn bộ nền kinh tế. Coi thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng ngành, từng lĩnh vực”. Bằng sự nỗ lực của các cấp, các ngành, việc ứng dụng CNTT trong thời gian qua đã đạt được những những kết quả quan trọng, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động, thúc đẩy cải cách hành chính. Theo đánh giá xếp hạng của Liên hợp quốc, trong những năm qua vị trí xếp hạng về phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam ngày càng được cải thiện, từ vị trí 91/182 năm 2008 đã vươn lên vị trí 90/190 năm 2010 và vị trí 83/190 năm 2012. Trong khu vực Đông Nam Á, hiện Việt Nam xếp thứ 4/11 nước, chỉ sau Singapore, Malaysia, Brunei.
Mặc dù vậy, ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước vẫn còn nhiều việc phải làm. Ứng dụng CNTT trong nội bộ cơ quan nhà nước chủ yếu quy mô nhỏ, chưa phát huy hết hiệu quả của ứng dụng CNTT. Các hệ thống thông tin quy mô quốc gia tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử chưa được triển khai, ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp còn hạn chế, các trang thông tin điện tử chủ yếu mới chỉ cung cấp thông tin, còn ít trường hợp người dân có thể nộp hồ sơ xin cấp phép, đăng ký qua mạng.
Nguyên nhân chính của các hạn chế này bao gồm:
- Kinh phí đầu tư cho ứng dụng CNTT còn hạn hẹp, mới đáp ứng khoảng 10% nhu cầu vốn của các dự án đã được xây dựng. Đến nay, chưa có mục (loại) chi riêng cho ứng dụng CNTT nên không có nguồn kinh phí ổn định cho ứng dụng CNTT.
- Một số cán bộ lãnh đạo chưa gương mẫu, chỉ đạo sát sao, quyết liệt ứng dụng CNTT nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động.
- Việc chuyển đổi phương thức làm việc hiện nay chủ yếu sử dụng văn bản giấy sang phương thức chủ yếu sử dụng văn bản điện tử, giao dịch trên môi trường mạng đòi hỏi phải có thời gian để cán bộ, công chức chuyển đổi thói quen làm việc.
Để tạo những bứt phá ứng dụng CNTT, phát triển chính phủ điện tử trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế vừa nêu, bao gồm:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về ứng dụng CNTT: Mở đợt tuyên truyền, vận động sâu rộng về lợi ích của ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị (Chỉ thị 58): “phát triển và ứng dụng CNTT là động lực quan trọng nhất của sự phát triển”.
Hai là, xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu: Có những hành động thiết thực để có được sự quan tâm, sự cam kết của người đứng đầu cơ quan nhà nước trong việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT.
Ba là, huy động tập trung nguồn lực cho ứng dụng CNTT: Ở cấp Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có công văn đề nghị Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015, trong đó có đề nghị vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 1605/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ kinh phí từ Trung ương cho các địa phương triển khai Quyết định này.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai ứng dụng CNTT. Trước hết là kiểm tra, đôn đốc việc triển khai Nghị định 102/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng vốn ngân sách nhà nước; Chỉ thị số 15/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước; Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong cơ quan nhà nước; Nghị định 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ về cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang/cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; …
PV: Thưa Bộ trưởng, ngày 20/11/2012 Quốc hội đã thông qua Luật Xuất bản (có thể gọi là Luật Xuất bản 2012). Xin Bộ trưởng cho biết một số điểm khác cơ bản trong nội dung Luật Xuất bản 2012 so với Luật hiện hành và những nội dung ấy sẽ tác động thế nào tới hoạt động xuất bản?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Tại kỳ họp thứ 4 vừa qua, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Xuất bản 2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013.
Trong Luật xuất bản 2012, có một số điểm mới đáng chú ý và khác biệt cơ bản so với Luật hiện hành như sau:
1. Về đối tượng được thành lập và loại hình tổ chức của nhà xuất bản
So với Luật hiện hành, Luật xuất bản năm 2012 đã thống nhất quy định cụ thể hơn về đối tượng được thành lập nhà xuất bản, gồm:
“Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh; Đơn vị sự nghiệp công lập ở trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa học, học thuật.”
Về loại hình tổ chức của nhà xuất bản, Luật mới quy định gồm 2 loại: “(1) Đơn vị sự nghiệp công lập (thay cho đơn vị sự nghiệp có thu quy định tại Luật hiện hành) và (2) doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu” để cho bao quát và đầy đủ hơn, bảo đảm tính chủ sở hữu của Nhà nước đối với nhà xuất bản.
Với quy định này, Luật đã thể hiện rõ về quan điểm nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động của nhà xuất bản một cách có định hướng, xác định rõ vị trí pháp lý của nhà xuất bản, đồng thời tránh sự phát triển về số lượng nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực.
2. Quy định cụ thể về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn đối với các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản, biên tập viên
Trong Luật mới này, các tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập và biên tập viên được quy định cụ thể hơn nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo nhà xuất bản, biên tập viên; xác định trách nhiệm pháp lý của đội ngũ này một cách rõ ràng hơn (ví dụ: đối với biên tập viên phải có chứng chỉ hành nghề biên tập, phải tham gia các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, về chính trị,…).
Các quy định của Luật nhằm mục đích là các chức danh này phải được chuẩn bị nền tảng vững chắc về nguồn nhân lực cho ngành xuất bản. Bên cạnh đó, Luật cũng có quy định về việc phát huy nội lực và đẩy mạnh liên kết trong hoạt động xuất bản bằng những quy định, điều kiện, nguyên tắc rõ ràng hơn để huy động nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản nhưng vẫn tăng cường và bảo đảm được chất lượng xuất bản phẩm theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
3. Cụ thể hóa, bổ sung các hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản
Luật Xuất bản 2012 đã được cụ thể hóa và bổ sung các hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản đã diễn ra trong thực tiễn thời gian qua, gây tác động và ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất bản (ví dụ: in lậu, in giả, in nối bản trái phép xuất bản phẩm).
Qua đó, Luật tạo khung pháp lý căn bản và nền tảng để nhằm ngăn chặn, đấu tranh một cách tích cực hơn nữa các vi phạm đã và đang làm suy kiệt ngành xuất bản ngày một trầm trọng...
4. Các chính sách của Nhà nước hỗ trợ cho hoạt động xuất bản
Đây là một trong số những điểm quan trọng đã được quy định trong Luật, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản. Cụ thể là Luật đã quy định các chính sách hỗ trợ cụ thể cho ngành xuất bản theo hướng khả thi hơn, nhắm đến những nhiệm vụ, địa bàn, đối tượng cụ thể của hoạt động xuất bản như đối với các đơn vị xuất bản, in, phát hành thực hiện nhiệm vụ phục vụ an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,…
5. Tạo khung pháp lý mới cho hoạt động xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử
Trước sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông, quá trình xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử còn có nhiều thay đổi, khó dự báo trước. Mặt khác, trong hoạt động xuất bản điện tử, xuất bản phẩm không cần phải in (nhân bản) mà có thể phát hành ngay trên phương tiện điện tử hoặc việc in (nhân bản) diễn ra sau khi xuất bản phẩm điện tử được phát hành (ví dụ: tải từ Internet để in).
Trong Luật Xuất bản 2012 lần này, một điểm đặc biệt đó là đã có thêm một chương so với Luật hiện hành về quản lý xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử. Nội dung chủ yếu của Chương quy định đối với nhà xuất bản và tổ chức, cá nhân phát hành xuất bản phẩm điện tử phải:
- Bảo đảm các điều kiện về năng lực thiết bị, công nghệ để thực hiện xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử và để ngăn chặn việc sao chép, can thiệp bất hợp pháp vào nội dung xuất bản phẩm điện tử nhằm quản lý hoạt động này một cách hiệu quả hơn.
- Bảo đảm xuất bản phẩm đã được xuất bản, in, phát hành hợp pháp được phát hành trên các phương tiện điện tử.
- Tuân thủ cách thức thực hiện đối với tác phẩm, tài liệu xuất bản lần đầu theo phương thức xuất bản điện tử phải thông qua nhà xuất bản hoặc phải được cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản cấp giấy phép xuất bản theo quy định tại Điều 25 của Luật này.
- Việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử chỉ được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
- Việc chuyển xuất bản phẩm điện tử sang xuất bản phẩm in để phổ biến tới nhiều người phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Đây là một Chương quy định mới, chưa có tiền lệ và kinh nghiệm nhiều trên thế giới. Luật đề ra những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc nhằm tạo khung phát triển pháp lý có tính ổn định lâu dài đối với một hoạt động có tính năng động cao. Đồng thời, Luật cũng quy định linh hoạt theo hướng giao cho cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản ban hành các quy định cụ thể theo từng giai đoạn phát triển của công nghệ để quản lý hoạt động này một cách có hiệu quả, nhằm vừa tạo điều kiện để những yếu tố tích cực có điều kiện phát huy, vừa chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực có hại cho xã hội cần phải được hạn chế một cách tối đa.
PV: Thời gian gần đây thị trường truyền hình trả tiền phát triển khá sôi động như thị trường viễn thông 10 năm trước. Được biết Bộ Thông tin và Truyền thông đang triển khai Quy hoạch truyền dẫn phát sóng phát thanh truyền hình, Đề án số hóa truyền hình Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông cũng mới trình Thủ tướng Quy hoạch dịch vụ truyền hình Việt Nam và đang hoàn chỉnh Quy hoạch báo chí Việt Nam đến 2020. Xin Bộ trưởng cho biết định hướng phát triển thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền trong thời gian tới ?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Việc cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền Việt Nam đã được áp dụng chủ trương xã hội hóa để thu hút, khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội. Nhờ vậy, sau 10 năm phát triển 63 tỉnh, thành phố đều đã có dịch vụ truyền hình cáp, truyền hình qua Internet IPTV và 100% lãnh thổ Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ truyền hình qua vệ tinh DTH. Trung bình mỗi hệ thống dịch vụ truyền hình trả tiền cung cấp từ 50 – 70 kênh chương trình trong và ngoài nước. Có kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu, có kênh chương trình quảng bá, có kênh chương trình chuyên biệt. Hầu hết các kênh chương trình truyền hình nước ngoài nổi tiếng trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam. Dịch vụ truyền hình trả tiền không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu thông tin và giải trí ngày càng đa dạng của người dân mà đã từng bước trở thành ngành kinh tế truyền thông có doanh thu khá cao, đóng góp không nhỏ cho ngân sách nhà nước và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động.
Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển “nóng” của thị trường truyền hình trả tiền trong giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể, do không được quy hoạch từ đầu nên việc phát triển dịch vụ truyền hình trả tiền, đặc biệt là truyền hình cáp, còn manh mún, tự phát, còn sử dụng công nghệ lạc hậu.
Thị trường truyền hình trả tiền mới chỉ tập trung ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ chưa tiếp cận được với người dân ở vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Giá thành và chất lượng dịch vụ chưa được kiểm soát tốt. Số lượng kênh chương trình nhiều song chất lượng chưa cao, các chương trình mới và hấp dẫn chưa nhiều. Việc xã hội hóa thiếu chọn lọc, có nơi có lúc xảy ra tình trạng khoán trắng dẫn đến tình trạng chất lượng một số chương trình, kênh chương trình kém, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế rất thấp. Một số doanh nghiệp có hiện tượng độc quyền, tăng giá.
Kênh chương trình nước ngoài chưa được chọn lọc kỹ, một số kênh chương trình có chất lượng không cao về chính trị, văn hóa, khoa học,…. ảnh hưởng không tốt đến nhận thức tư tưởng, lối sống của người dân, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc. Cơ cấu kênh chương trình trong nước và ngoài nước chưa hợp lý chưa thúc đẩy phát triển công nghiệp nội dung trong nước.
Để phát huy những mặt tích cực, khắc phục một số bất cập trong quá trình phát triển thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành một số Quy hoạch. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, mang tính đồng bộ để phát triển ngành truyền hình nói chung và thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền nói riêng, theo hướng bền vững, công nghệ hiện đại, chất lượng dịch vụ cao.
Cụ thể, mục tiêu của Quy hoạch báo chí Việt Nam đến năm 2020 là sắp xếp lại cả 4 loại hình báo chí, gồm báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử, thành một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị thông tin tuyên truyền một cách hiệu quả nhất; đáp ứng nhu cầu thông tin giải trí của xã hội một cách đầy đủ nhất.
Mục tiêu của Quy hoạch truyền dẫn phát sóng và Đề án Số hóa truyền hình Việt Nam đến năm 2020 là thay thế hoàn toàn hệ thống phát sóng truyền hình mặt đất công nghệ tương tự hiện tại bằng hạ tầng truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất vào năm 2020. Khi đó, người dân sẽ được xem các chương trình trình truyền hình với chất lượng hình ảnh và âm thanh tốt hơn; số lượng các chương trình truyền hình cũng nhiều hơn; đồng thời có thể tích hợp cả dịch vụ phát thanh, truyền hình với các kênh truyền hình độ phân giải cao và nhiều dịch vụ giá trị gia tăng phong phú. Theo Quy hoạch này sẽ hình thành thị trường truyền dẫn phát sóng truyền hình mặt đất kỹ thuật số với 3 mạng phát sóng có quy mô toàn quốc và 5 mạng phát sóng có quy mô khu vực, sử dụng chung để truyền tải tất cả các kênh truyền hình quảng bá của các đài truyền hình trung ương và địa phương hiện nay. Các đài phát thanh, truyền hình trên toàn quốc sẽ từng bước chuyển đổi mô hình tổ chức để tập trung vào nhiệm vụ sản xuất và nâng cao chất lượng nội dung chương trình. Việc dùng chung hạ tầng phát sóng kỹ thuật số của quốc gia/khu vực sẽ giúp các đài tiết kiệm nguồn nhân lực và chi phí rất lớn để vận hành hệ thống phát sóng. Để bảo đảm quyền lợi chính đáng của đại đa số người dân, việc số hóa truyền hình sẽ thực hiện từng bước, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của từng vùng và có biện pháp hỗ trợ người dân chuyển sang dùng đầu thu truyền hình số.
Đối với thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền, một trong những định hướng phát triển là sắp xếp lại hệ thống truyền hình trả tiền hiện có, đặc biệt là truyền hình cáp tương tự nhằm khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải; hình thành thị trường dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền cạnh tranh lành mạnh theo cơ chế thị trường, phát triển bền vững với công nghệ hiện đại, có lộ trình chuyển hoàn toàn sang phát thanh, truyền hình số vào năm 2020, nội dung chương trình phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; chất lượng dịch vụ ngày càng cao và giá dịch vụ phù hợp; từng bước hình thành những doanh nghiệp lớn, có năng lực, bảo đảm cung cấp dịch vụ chất lượng trên diện rộng và có khả năng vươn ra khu vực và thế giới; huy động nguồn lực xã hội vừa góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền, vừa đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng đa dạng của người dân.
Một trong những giải pháp quan trọng mà Bộ xác định để phát triển thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ truyền hình trả tiền là bên cạnh việc hoàn thiện môi trường pháp lý cần tăng cường công tác cấp phép, thanh tra kiểm tra xử phạt sau cấp phép, kiểm soát chất lượng thiết bị và dịch vụ.
PV: Xuân Quý Tỵ đang gõ cửa từng gia đình Việt Nam, trước thềm Xuân mới, Bộ trưởng có thông điệp hay lời chúc gì với khán thính giả truyền hình và với toàn ngành Thông tin và Truyền thông?
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Năm 2012, trong điều kiện khó khăn, nhiều thách thức, song Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước trên cả 5 lĩnh vực báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông và CNTT. Để đạt được kết quả đó, bên cạnh sự quyết tâm, cố gắng của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành, chúng tôi còn nhận được sự hưởng ứng, cổ vũ, giúp đỡ của toàn xã hội. Trước thềm Xuân Quý Tỵ 2013, thay mặt Bộ Thông tin và Truyền thông, tôi xin gửi đến tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan chính quyền từ Trung ương đến địa phương và nhân dân cả nước lời cám ơn chân thành nhất và lời chúc “Năm mới sức khoẻ, hạnh phúc và nhiều thành công mới trong cuộc sống”.
Ðộc đáo bộ tem "Tết Quý Tỵ 2013"
Bộ tem được Hội đồng tư vấn tem đánh giá cao gồm hai mẫu giá mặt: 2.000đ và 10.5000đ. Tem hình vuông, khuôn khổ 37 x 37 (mm) thiết kế theo phong cách trang trí đồ họa trổ giấy dân gian, được cách điệu với hình ảnh rắn vui tươi, khỏe khoắn, vững vàng, không kém phần uyển chuyển, mềm mại, nhẹ nhàng, thân hình có hoa văn tươi tắn, hình ảnh rắn chiếm hầu hết mặt tem.
Mẫu 1: Hình ảnh đôi rắn to lẳn, thân hình lồng ghép, quấn quít bên nhau, một đầu phía trên, một đầu phía dưới, hai đuôi hai phía cạnh tem, thể hiện tình nghĩa, son sắt, gắn bó lâu bền, tô mầu vàng của hoa mai miền nam, nền tem có điểm ba bông hoa mai vàng rực rỡ đón xuân. Mẫu 2: Hình ảnh đôi rắn son trẻ, chắc nịch, thân hình quấn quít bên nhau, hai đầu ngẩng cao, hai đuôi hướng về hai phía phải, trái tem đối xứng nhau, thể hiện sức mạnh đoàn kết, khí thế vươn lên, trên nền hoa đào đỏ thắm, thể hiện sự sinh sôi, nảy nở không ngừng. Viền khung hai tem được hoán đổi mầu (vàng, đỏ) khác với mầu rắn trong tem khiến mầu sắc mỗi tem thêm sinh động, bắt mắt hơn. Các dòng chữ: "Việt Nam, Bưu chính, 2000đ, 10.500đ, Tết Quý Tỵ" đậm nét bao quanh, tôn thêm hình tượng rắn trên tem. Cùng với tem, còn có phong bì ngày phát hành đầu tiên (FDC) cũng có hình rắn, hoa đào, hoa mai tươi vui, rực rỡ.
Tem phát hành sớm, hình ảnh bình dị mà giàu ý nghĩa, chào mừng năm mới Quý Tỵ 2013, cũng là lời chúc đầu năm của ngành Bưu điện đối với người yêu tem, sử dụng tem trong và ngoài nước.
Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông: Nhìn thẳng vào điểm yếu để quyết liệt hành động
Phát triển nhanh ICT trên nền tảng bền vững
- Năm 2012, bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam và quốc tế có nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên lĩnh vực Viễn thông, Công nghệ thông tin Việt Nam được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực, xin Bộ trưởng cho biết đôi nét về những thành tựu đó?
- Năm qua, Bộ đã trình để Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành, thông qua 11 văn bản quy phạm pháp luật, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cải thiện môi trường hoạt động cho các tổ chức doanh nghiệp.
Đáng chú ý trong số này là Luật xuất bản sửa đổi được Quốc hội thông qua ngày 20/11 trong đó có hẳn một chương mới về xuất bản và phát hành điện tử, Nghị định số 77/2012/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 của Chính phủ về chống thư rác, quy định về giá, chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện,…
Bộ TT&TT cũng đã trình Chính phủ Dự thảo về Nghị định thay thế Nghị định số 97/2008/NÐ-CP ngày 28/8/2008 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet nhằm đưa hoạt động Internet sang một giai đoạn phát triển mới.
Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son
Thị trường viễn thông có nhiều thay đổi phù hợp với định hướng của Quy hoạch viễn thông quốc gia đến năm 2020. Bộ cũng đã quyết liệt siết chặt quản lý đối với những lĩnh vực gây nhiều bức xúc trong xã hội như thuê bao di động trả trước, SIM rác, tin nhắn quảng cáo. Sự kiện vệ tinh VINASAT-2 được phóng thành công lên quỹ đạo là một cột mốc quan trọng, tiếp tục khẳng định chủ quyền quốc gia và vị thế của viễn thông Việt Nam.
Dù điều kiện kinh tế thế giới rất ảm đạm nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu CNTT của VN năm qua vẫn đạt xấp xỉ 18 tỷ USD.
- Ngoài chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Thông tin Truyền thông, Bộ còn quản lý ngành đối với doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông, lĩnh vực được cho là hạ tầng của hạ tầng và cũng là lĩnh vực năng động nhất, Bộ trưởng đánh giá sao về hoạt động kinh tế của lĩnh vực này?
- Hai doanh nghiệp lớn nhất trong ngành là VNPT và Viettel duy trì lợi nhuận và tăng trưởng khá, đạt doanh thu lần lượt hơn 130.000 tỷ và hơn 140.000 tỷ đồng trong năm 2012, tăng trưởng 10% và 18% so với năm 2011. Riêng hai doanh nghiệp này đóng góp cho ngân sách khoảng 20 000 tỷ đồng.
Dịch vụ viễn thông là một trong số ít các dịch vụ có giá ngày càng giảm, phù hợp với khả năng chi trả của người dân.
Đây là một thành quả đáng khen ngợi, khi mà hàng loạt doanh nghiệp đang lâm vào tình cảnh phá sản, nhiều tổng công ty, tập đoàn hoạt động yếu kém, phải xuống hạng. Việc VNPT và Viettel vẫn vững vàng và tăng trưởng, thậm chí mở rộng ra kinh doanh quốc tế là những nỗ lực đáng được ghi nhận.
Kết quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực viễn thông trong những năm qua có thể khẳng định đây là một lĩnh vực mà doanh nghiệp Việt – doanh nghiệp Nhà nước làm chủ, giành quyền kiểm soát sân nhà, thắng trên sân nhà và đóng góp thiết thực nhất vào việc thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” bởi 100% người Việt dùng dịch vụ viễn thông của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam.
Kết quả trên còn góp phần khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng về kinh tế nhà nước là chủ đạo, trong đó doanh nghiệp Nhà nước – các tập đoàn, tổng công ty giữ vai trò nòng cốt.
Ngoài lĩnh vực viễn thông, thực hiện chủ trương tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định chuyển quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam từ VNPT về Bộ TT&TT. Thực hiện trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ chỉ đạo VNPost phát huy hiệu quả hoạt động của mạng bưu chính công cộng do Nhà nước đầu tư, nâng cao chất lượng các dịch vụ bưu chính công ích nhằm đáp ứng tốt các nhu cầu về dịch vụ bưu chính của Đảng, Nhà nước và của xã hội.
Dịch vụ viễn thông là một trong số ít các dịch vụ có giá ngày càng giảm, phù hợp với khả năng chi trả của người dân
Bộ Thông tin và Truyền thông cũng sẽ chỉ đạo VNPost chú trọng gắn kết việc cung ứng dịch vụ bưu chính với các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội khác tại địa phương trong khả năng của mình, gắn kết mục tiêu phát triển và ổn định xã hội đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa thông qua hệ thống điểm Bưu điện –Văn hóa xã.
- Ngành thông tin, viễn thông thời gian qua phát triển rất nhanh, đi trước đón đầu nhưng phát triển nóng luôn kèm theo những “tác dụng phụ”. Quan điểm của Bộ trưởng trong quản lý lĩnh vực này thời gian tới là tiếp tục tăng trưởng nóng hay phát triển bền vững?
Thị trường viễn thông mở cửa và cạnh tranh từ rất sớm là một thành công quan trọng giúp lĩnh vực này phát triển bắt kịp với thế giới. Môi trường viễn thông cạnh tranh là động lực để phát triển nhanh chóng, nhờ đó mà chất lượng dịch vụ được nâng cao với giá cước ngày càng rẻ.
Tuy nhiên quá trình phát triển nóng cũng tạo ra một số tác dụng phụ như xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh như khuyến mãi lớn quá mức cho phép, xuất hiện hiện tượng lừa đảo qua tin nhắn, qua hoạt động thương mại trên mạng,.…
Quan điểm của Bộ Thông tin & Truyền thông là chú trọng phát triển hiệu quả và bền vững, theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 11. Bộ sẽ bám sát chỉ đạo của Thủ tướng trong “Thông điệp đầu năm” là áp đặt kỷ luật thị trường vào cả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp viễn thông yếu kém, kể cả doanh nghiệp Nhà nước, sẽ không có chỗ đứng trên thị trường. Bộ cũng sẽ triển khai quyết liệt Quy hoạch viễn thông quốc gia để thị trường phát triển lành mạnh hơn, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ tiếp tục nỗ lực làm chủ thị trường trong nước và vươn ra quốc tế như Viettel đã bước đầu thành công ở Haiti, Mozămbic, Peru,….
- Ứng dụng công nghệ thông tin là lĩnh vực rất quan trọng giúp thay đổi căn bản nền tảng hạ tầng và cải cách hành chính, Bộ sẽ làm gì để giải quyết các vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước?
- Tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ năm 2013, nhiều lãnh đạo Sở đã phản ánh với lãnh đạo Bộ những công việc cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn từ Bộ hoặc Chính phủ.
Điển hình như việc triển khai cơ chế một cửa điện tử. Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ TT&TT đã khẩn trương xây dựng và chuyển giao trong năm 2013 phần mềm dùng chung cho Bộ phận một cửa cấp huyện cho các địa phương, trong bối cảnh cả nước mới có 203 huyện ở 42 tỉnh, thành phố áp dụng cơ chế một cửa hiện đại (một cửa điện tử).
Một vướng mắc khác trong hoạt động ứng dụng CNTT tại các địa phương là việc xây dựng chính quyền điện tử, công dân điện tử. Đa số các địa phương đang có khó khăn chung của cơ sở là chưa có loại/khoản chi riêng cho CNTT và thiếu kinh phí cho ứng dụng CNTT. Các địa phương đặc biệt là tỉnh miền núi khó đẩy mạnh ứng dụng CNTT-TT khi các dự án, kế hoạch ứng dụng CNTT thường không bố trí được kinh phí.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ TT&TT đã có công văn đề nghị Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015, trong đó có đề nghị vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 1605/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ kinh phí từ TƯ cho các địa phương triển khai QĐ 1605. Mặt khác, sẽ triển khai nhiều giải pháp khác để đảm bảo đủ nguồn lực (cả về nhân lực và tài lực) cho việc triển khai thành công ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước như hình thức thuê dịch vụ CNTT của các doanh nghiệp CNTT,…
Trong năm 2013, Bộ TT&TT sẽ tập trung tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong ứng dụng CNTT ở cơ quan Nhà nước và đời sống xã hội; nâng cao nhận thức về ứng dụng CNTT tạo cơ hội cho vùng sâu, vùng xa, vùng cao có điều kiện ứng dụng CNTT vào cuộc sống.
Báo chí Truyền thông: Tạo lòng tin và sự đồng thuận
- Lĩnh vực nhạy cảm rất được xã hội quan tâm là quản lý báo chí, phát thanh truyền hình, Internet. Xin Bộ trưởng khái quát về hoạt động tác nghiệp của báo chí trong năm qua.
- Lĩnh vực báo chí xuất bản, trong năm qua cơ bản hoạt động tốt, đáp ứng được nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao phó. Chính phủ cũng ghi nhận Bộ TT&TT đã chỉ đạo quyết liệt hoạt động báo chí, nhờ đó đã tạo được sự đồng thuận xã hội cao trong việc thực hiện các chủ trương đường lối phát triển kinh tế-xã hội, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Đáng tiếc là vẫn còn hiện tượng một số cơ quan báo chí bị chi phối bởi cơ chế thị trường dẫn đến vi phạm tôn chỉ, mục đích, nặng về khai thác những vụ việc tiêu cực hoặc chạy theo đưa tin giật gân, câu khách, thậm chí là sai sự thật. Một số phóng viên vẫn vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Bộ đã chấn chỉnh và xử lý kịp thời. Cá biệt Bộ đã phải đình chỉ tạm thời 2 tờ báo mạng, kỷ luật và thu hồi thẻ của một số phóng viên. Năm 2012 cũng là năm Bộ đã kỷ luật và thu hồi thẻ nhà báo đối với cả Tổng biên tập vi phạm kỷ luật. Tuy nhiên đây là con số rất ít, những vụ việc đơn lẻ trong số 812 cơ quan báo chí và 17.000 nhà báo luôn giữ vững và phát huy vai trò của nền báo chí cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay.
- Một trong những nhiệm vụ của báo chí là tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai mục tiêu kinh tế xã hội, Bộ trưởng sẽ làm gì để báo chí đạt được mục tiêu này?
- Để tạo được sự đồng thuận Bộ tập trung vào 2 yếu tố quyết định: Tạo cơ chế cung cấp thông tin đầy đủ cho báo chí, từ đó báo chí cung cấp đầy đủ thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến nhân dân một cách đầy đủ và kịp thời. Thông tin đầy đủ chính là thực hiện chủ trương minh bạch hóa và qua đó mới xây dựng được lòng tin, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội. Đồng thời Bộ cũng tăng cường công tác quản lý để tạo hành lang hoạt động cho báo chí nhưng cũng tiếp tục xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi không biết đặt lợi ích đất nước, lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân trong hoạt động báo chí.
Bộ sẽ đẩy mạnh việc thực hiện phương châm ”lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, đặc biệt đối với thông tin trên Internet
Bộ sẽ đẩy mạnh việc thực hiện phương châm ”lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, đặc biệt đối với thông tin trên Internet
Sự phát triển với tốc độ chóng mặt của viễn thông, Internet và các ứng dụng trên nó, nhất là các ứng dụng về truyền thông xã hội như diễn đàn, mạng xã hội và blog... một mặt đã góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng về chia sẻ thông tin và giao tiếp cá nhân của cộng đồng nhưng nó cũng rất dễ bị lợi dụng để thực hiện các hoạt động phi pháp. Thực vậy, các thế lực thù địch cùng các phần tử cơ hội thoái hóa biến chất trong nước đang tìm cách lợi dụng môi trường mở internet để ngăn cản, chống phá việc xây dựng, phát triển nước ta trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa với các thủ đoạn bôi đen, suy diễn, kích động, gây chia rẽ nội bộ, đả phá vai trò lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc lịch sử, văn hóa dân tộc, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Thời gian tới Bộ sẽ đẩy mạnh việc thực hiện phương châm ”lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, đặc biệt đối với thông tin trên Internet. Khi Nghị định 97 sửa đổi được ban hành, Bộ sẽ nhanh chóng triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để hoạt động cung cấp và sử dụng thông tin trên mạng viễn thông-internet được lành mạnh hơn. Khi thông tin chính thống và lành mạnh là chủ đạo cả trên môi trường mạng thì sẽ giảm thiểu được tác động của các thông tin độc hại, sai sự thật. Bên cạnh đó Bộ cũng sẽ đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân nâng cao ý thức trách nhiệm đối với bản thân, xã hội và đất nước khi khai thác sử dụng mạng viễn thông-internet. Các biện pháp thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong lĩnh vực này cũng sẽ được tăng cường.
Nhìn thẳng vào yếu kém và hành động quyết liệt
- Tiếp nhận công việc trên cương vị Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông hơn 1 năm, Bộ trưởng xác định những tồn tại cần giải quyết của ngành là gì thưa Bộ trưởng?
- Dù trong năm 2012 ngành TT&TT và Bộ đạt được nhiều kết quả đáng tự hào nhưng Bộ cũng thấy rõ một số tồn tại. Thời gian tới Bộ phải cải thiện bằng được chất lượng, tiến độ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, theo đúng phương châm quản lý phải theo kịp và hướng tới thúc đẩy sự phát triển.
Tiếp đến, Bộ TT&TT cũng sẽ quyết liệt và triệt để hơn trong tổ chức thực thi các biện pháp quản lý. Ngay đầu năm 2013, Thông tư số 14/2012/TT-BTTTT quy định giá cước dịch vụ thông tin di động mặt đất và Nghị định 77/2012/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác đã có hiệu lực thi hành. Mặc dù còn nhiều khó khăn do chưa có cơ sở dữ liệu điện tử toàn quốc về dân cư, thông qua các hoạt động triển khai đồng bộ một số biện pháp mới nêu trên Bộ quyết tâm tạo chuyển biến mạnh mẽ tình trạng SIM rác, tin nhắn rác.
Một số vấn đề quản lý nhà nước khác chưa được xử lý quyết liệt thời gian qua và tiếp tục được xã hội quan tâm là dùng chung hạ tầng liên ngành, tình trạng in lậu, nhập lậu sách, game online,…...cũng thuộc trọng tâm công tác của Bộ trong năm 2013.
Bộ Thông tin và Truyền thông cam kết 2013 sẽ là năm Bộ tiếp tục nỗ lực, chỉ đạo quyết liệt, có trọng điểm và kịp thời hơn nữa đối với các vấn đề nóng, các tồn tại kéo dài, để năm 2013 thực sự là một năm bản lề trong việc thực hiện chương trình công tác nhiệm kỳ 2011-2015.
- Xin cám ơn Bộ trưởng